Trình Quốc hội cho lùi thời gian thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và khai thác tài nguyên nước

Chiều ngày 21/10, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Quốc hội nghe Tờ trình của Chính phủ về việc đề nghị Quốc hội cho lùi thời gian thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và khai thác tài nguyên nước.

Chậm ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai thi hành Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước

Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về việc đề nghị Quốc hội cho lùi thời gian thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và khai thác tài nguyên nước, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà nêu rõ, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước là chính sách lần đầu tiên được quy định trong Luật Khoáng sản năm 2010 và Luật Tài nguyên nước năm 2012 của Việt Nam. Bên cạnh thuế tài nguyên đã thu từ nhiều năm trước, đây là một khoản thu thêm nhằm mục đích yêu cầu tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước nâng cao trách nhiệm trong việc khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí tài nguyên.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trình bày Tờ trình

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trình bày Tờ trình

Để triển khai thi hành Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước, Chính phủ được giao xây dựng, ban hành Nghị định hướng dẫn phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Theo đó, ngày 28/11/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 203/2013/ NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, có hiệu lực từ ngày 20/01/2014, chậm 02 năm 6 tháng kể từ ngày Luật Khoáng sản có hiệu lực thi hành; ngày 17/7/ 2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, có hiệu lực từ ngày 01/9/2017, chậm 04 năm 8 tháng kể từ ngày Luật tài nguyên nước có hiệu lực thi hành.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà thẳng thắn, việc ban hành chậm các Nghị định nêu trên là do trong quá trình xây dựng các Luật, Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo đã không lường trước được hết những khó khăn, phức tạp, nhất là các vấn đề liên quan đến kinh tế, các thông số kỹ thuật phức tạp như đối với tài nguyên khoáng sản, các thông số tính tiền là trữ lượng và chất lượng của từng mỏ, từng loại khoáng sản. Đối với tài nguyên nước, Luật quy định chỉ tính tiền đối với một số hoạt động khai thác tài nguyên nước có lợi thế như: thủy điện, khai thác nước để cấp cho một số hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ... nhưng không tính tiền đối với nước tưới cho nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt của nhân dân. Các thông số tính tiền là chất lượng của nguồn nước, loại nguồn nước, điều kiện khai thác, quy mô, thời gian khai thác, mục đích sử dụng nước của từng công trình khai thác.

Việc xác định các thông số để tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là trữ lượng và chất lượng khoáng sản, trong khi đó nội dung của gần 5000 Giấy phép khai thác nêu trên là không thống nhất, phức tạp, chỉ ghi công suất khai thác, phần lớn không có trữ lượng, chất lượng khoáng sản dẫn đến việc hoàn thiện phương pháp tính, mức thu là rất khó khăn.

Do đó, cần phải có nhiều thời gian để hoàn thiện phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; đồng thời phải tính toán kỹ lưỡng các phương án để lựa chọn phương án có tính khả thi khi lần đầu tiên thực hiện chính sách.

Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều hành nội dung phiên họp toàn thể

Việc ban hành chậm các Nghị định cũng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, của cơ quan chủ trì soạn thảo chưa chủ động, chưa kịp thời báo cáo, đề xuất để tháo gỡ khi gặp khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó, việc nhận thức về thẩm quyền quyết định thời hạn áp dụng việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước chưa đầy đủ, nên Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm định chưa kịp thời trình Quốc hội để xem xét, quyết định thời điểm tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.

Khó khăn trong thực hiện hồi tố truy thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước

Bên cạnh những vấn đề do xây dựng, ban hành nghị định, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng cho hay khi hồi tố truy thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước cũng gặp phải khó khăn, vướng mắc.

Theo đó, sau khi các Nghị định nêu trên có hiệu lực, nếu tính tiền cấp quyền cho giai đoạn trước (từ ngày 01/7/2011 đến ngày 20/01/2014, đối với khai thác khoáng sản và từ ngày 01/01/2013 đến ngày 31/8/2017, đối với khai thác tài nguyên nước) thì thực chất khi chưa thu khoản này đã nằm trong thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản thuế khác, các khoản phí đã được các doanh nghiệp thực hiện và cũng đã được hạch toán, trích, lập các loại quỹ.

Cùng với đó, trong các giai đoạn nêu trên, doanh nghiệp khai thác khoáng sản, khai thác tài nguyên nước đã quyết toán chi phí từng năm, đã nộp các khoản thuế, phí cho Nhà nước, trích quỹ theo quy định như đã nêu trên... nếu hồi tố thì phải khấu trừ các khoản thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, với những khó khăn, vướng mắc nêu trên, đồng thời để phản ánh đúng tình hình ngân sách Nhà nước, thực hiện kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Thông báo số 3024/TB-TTKQH nêu trên, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho phép lùi thời gian thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước và đưa vào Nghị quyết tại kỳ họp thứ 8 (10/2019), Quốc hội khóa XIV với nội dung sau:“Việc thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản quy định tại khoản 1 Điều 77 và quy định tại khoản 3 Điều 84 của Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 được thực hiện kể từ ngày 01/01/2014; việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo quy định tại khoản 1 Điều 65 và theo quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH13 được thực hiện kể từ ngày 01/9/2017.”

Bảo Yến - Nghĩa Đức

Nguồn Quốc Hội: http://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=42455