Tranh cử Tổng thống Mỹ: Những chiến dịch sai lầm

Có thể nói, nhiều ứng cử viên Tổng thống Mỹ đã phạm những sai lầm đáng tiếc. Năm 1988, ứng cử viên của đảng Dân chủ Joe Biden đã diễn thuyết gần như nguyên văn bài nói của một người khác. Năm 1992, trong cuộc tranh luận trên truyền hình toàn quốc, George H.W. Bush đã liếc mắt kiểm tra đồng hồ, như thể ông đang có một công việc nào đó cấp bách hơn. Một số những sai lầm oái oăm tương tự được liệt kê dưới đây.

Sai lầm của Nixon

Có thể nói ít ứng cử viên Tổng thống Mỹ nào phạm nhiều sai lầm như Richard Nixon.

Cuộc tranh luận kịch tính năm 1960 của Richard Nixon với John F. Kennedy là tai tiếng chính trị được biết đến rộng rãi. JFK vốn là một người ăn ảnh, thường xuất hiện một cách rất sáng tạo, tự tin và thân mật, trong khi Nixon có vẻ ngoài dù mạnh mẽ nhưng lại khá nông cạn, xa cách và kiệt quệ. Kết quả là số người ủng hộ JFK áp đảo trong số 74 triệu người xem truyền hình. Ông tiếp tục giành chiến thắng trong cuộc bầu cử.

Tuy nhiên, ít ai biết được nguồn gốc của cuộc tranh luận cũng như một cam kết khác thường khi Nixon hứa hẹn rằng sẽ đến tất cả 50 tiểu bang trong chiến dịch của mình.

Tất nhiên, chiếc ghế Tổng thống Mỹ được xác định bằng chiến thắng của các ứng cử viên tại các tiểu bang, hơn là bỏ phiếu phổ thông. Mỗi ứng cử viên đều có những tiểu bang “an toàn”, nghĩa là họ có thể xác định sẽ chiếm đa số phiếu ở các bang này. Ví dụ, Texas là “bang an toàn” của đảng Cộng hòa, còn California là bang của đảng Dân chủ.

Bằng cách đến thăm tất cả các tiểu bang Mỹ, kể cả Alaska và Hawaii, nghĩa là Nixon đã hết sức ganh đua với những phiếu bầu quan trọng trước vào chiến dịch quan trọng nhất, với cuộc tranh luận được theo dõi bởi hàng chục triệu người Mỹ.

Mặc dù các cố vấn đã cố gắng vận động Nixon hủy bỏ cam kết này, nhưng ứng cử viên bướng bỉnh vẫn cố gắng hoàn thành chuyến xuyên quốc gia, ngay cả sau khi nhập viện trong hai tuần.

Tháng 3/1968, Tổng thống Lyndon Johnson tuyên bố ông sẽ không tái tranh cử. Vài ngày sau, Martin Luther King Jr. bị ám sát. Tháng 6, Thượng nghị sĩ New York và ứng cử viên tổng thống đầy tiềm năng Robert Kennedy cũng bị sát hại.

Hội nghị Quốc gia Dân chủ đã bị lu mờ bởi các cuộc bạo loạn đẫm máu. Phó Tổng thống Hubert Humphrey nổi lên với tư cách là ứng cử viên, thiết lập một chiến dịch chống lại Richard Nixon. Nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, trong khi cuộc đua đã đến rất gần.

Chỉ vài tuần trước cuộc bầu cử, Tổng thống Johnson đã tặng cho Phó Tổng thống của mình một món quà làm thay đổi cuộc chơi: Mỹ gặp khó ở Việt Nam. Tất cả các vụ đánh bom dừng lại, và một bước đột phá trong các cuộc đàm phán hòa bình đã được công bố.

Thế nhưng lần này, Richard Nixon đã quyết định phá hoại các cuộc đàm phán. Johnson đã nghe lén bằng chứng về sự bất ổn của Nixon và ngay lập tức nói với Humphrey. Tuy nhiên, Humphrey hoàn toàn không làm gì cả, với lý do không có bằng chứng vững chắc. Vì vậy, thay vì vạch trần đối thủ của mình vì kéo dài một cuộc chiến tranh giành lợi ích chính trị, chính Humphrey đã tạo điều kiện để Nixon trở thành lãnh đạo nước Mỹ.

Bốn năm sau, việc Nixon tái tranh cử không còn là một sự nghi ngờ. Đối với đa số cử tri, ứng cử viên đảng Dân chủ George McGocate được coi là quá nghiêng về cánh hữu. Để có bất kỳ cơ hội chiến thắng nào, McGocate cần phải làm mọi thứ hoàn hảo và rất nhiều may mắn.

Thực tế chẳng như mong đợi. McGocate đã chọn Thomas Eagleton làm bạn đời của mình. Hai tuần sau, Eagleton tiết lộ rằng chồng mình đã phải trải qua quá trình điều trị sốc điện vì kiệt sức và mệt mỏi. Tiết lộ vô tư của người vợ đã tước những cơ hội cuối cùng của Thomas Eagleton.

Trong khi đó, Richard Nixon đã đánh giá quá cao đối thủ của mình và che đậy vụ bê bối tốn kém nhất trong lịch sử Mỹ: Watergate. Tất nhiên, việc đột nhập vào trụ sở của đảng Dân chủ để thu thập nghiên cứu phe đối lập là một nỗ lực không cần thiết, trong khi việc Nixon tái trúng cử đã gần như chắc chắn. Scandal vỡ lở dẫn đến việc Nixon buộc phải từ chức hai năm sau đó.

Sự đen đủi của Hoover và nước đi nhầm của Dukakis

Herbert Hoover có thể là Tổng thống Mỹ không may mắn nhất. Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán vào tháng 10/1929 xảy ra khi ông lên nắm chính quyền chưa đầy 1 năm, mở ra cuộc Đại khủng hoảng.

Hàng triệu người mất việc làm, hàng loạt người bỗng thành vô gia cư. Hàng loạt khu ổ chuột mọc lên trên toàn quốc, với tên gọi chế giễu: Hoovervilles. Hoover được miêu tả là một vị tổng thống bất lực; tồi tệ hơn, đối thủ Dân chủ của ông năm 1932, Thống đốc bang New York Franklin D. Roosevelt, đưa ra lời hứa hẹn với người dân một chương trình mới, trong đó người thất nghiệp sẽ được thuê để xây dựng các dự án công cộng như đường, cầu và cơ sở hạ tầng khác.

Đứng trước sự cạnh tranh sống còn với đối thủ, Hoover cần phải làm một điều gì đó. Không may, bước đi mà Hoover thực hiện quá dại dột: Sát hại các cựu chiến binh trong Thế chiến I chỉ vì yêu cầu bồi thường chiến tranh của họ.

Tháng 7/1932, 17 nghìn cựu chiến binh Mỹ, trong đó có nhiều người thất nghiệp kể từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, đã tập trung tại Washington D.C để yêu cầu thanh toán sớm các khoản tiền thưởng không chính thức đến năm 1948, với lý do họ gặp nhiều nguy cơ do hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

Hoover đã ra lệnh bắn vào đám đông khiến hai người thiệt mạng. Hàng trăm người khác bị thương trong cuộc loạn đả, khi quân đội cố gắng ra tay trấn áp. Rõ ràng, việc sát hại cựu chiến binh chẳng khôn ngoan gì, nhất là ngay trước thời gian tranh cử.

Năm 1988, con đường chính trị của Michael Dukakis mở rộng. Được bầu làm ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa tại Hội nghị Quốc gia Dân chủ vị Thống đốc bang Massachusetts này đã dẫn trước Phó Tổng thống Cộng hòa George H.W. Bush bằng 17 điểm phần trăm trong tháng Bảy.

Nếu tính đến các tác động kéo dài của vụ bê bối Iran - Contra năm 1987, nhiều người đặt cược Dukakis chắc chắn sẽ được ủng hộ trong cuộc bầu cử chung mùa thu năm đó.

Nhưng cuộc đua bất ngờ trở nên gay cấn. Bush bắt đầu ra tăng hình ảnh của mình thông qua lỗi khá ngớ ngẩn trong một quảng cáo truyền thông nhằm nâng tầm của Dukakis nhưng lại bị công chúng và giới truyền thông cho là có dấu hiệu phân biệt chủng tộc.

Trong khi đó, các cảnh quay quảng bá của đảng Cộng hòa trong Thế chiến II lại cho thấy hình ảnh một Bush đĩnh đạc leo lên nóc con tàu ngầm sau khi tàu bị bắn, mang lại ấn tượng về Bush như một người yêu nước nhiệt thành, bất chấp cái chết…

Trong khi đối thủ được nhìn nhận như một anh hùng chiến tranh, Dukakis khao khát có thể xây dựng lại hình ảnh bản thân. Ông ta đã làm một điều vô cùng ngớ ngẩn, nhất là khi Dukakis sở hữu diện mạo của một người đàn ông thấp bé, mọt sách. Dukakis đã cưỡi trên một chiếc xe tăng, đầu đội mũ bảo hiểm. Với hình ảnh như một đứa trẻ mẫu giáo trong trò chơi chiến sự, chiến dịch tranh cử của Dukakis đã thất bại thảm hại.

Mike Dukakis trên nóc chiếc xe tăng.

Mike Dukakis trên nóc chiếc xe tăng.

Nước cờ của Gore và chiến dịch truyền thông “bôi nhọ” của Karl Rove

Cuộc bầu cử có chiến thắng sát nút nhất trong lịch sử nước Mỹ diễn ra năm 2000 giữa Thống đốc bang Texas George W. Bush và Al Gore, người sau này là Phó Tổng thống.

Cuộc bầu cử xoay quanh tranh chấp ở Florida, nơi mà tỷ lệ phiếu bầu dao động từng li trong suốt quá trình kéo dài. Trong đêm bầu cử, Bush đã dẫn đầu với gần 1.784 phiếu bầu trong số gần sáu triệu phiếu bầu tại Florida. Với tỷ lệ ký quỹ dưới 0,5%, kết quả từ máy tính cho thấy có 327 phiếu bầu không thể dự báo được.

Ngay sau đó là những lộn xộn: Giới truyền thông đưa tin hỗn loạn; cả hai đảng tổ chức biểu tình. Cuối cùng, Thư ký Ủy ban Bầu cử bang Florida Katherine Harris bất lực tuyên bố Bush là người chiến thắng. Sau kết quả sơ bộ được công bố đã có một số phản ứng mạnh mẽ từ phe đối lấp nhưng cuối cùng, phán quyết của Tòa án Tối cao đã đưa ông Bush đắc cử Tổng thống Mỹ.

Nhưng sự kiện quan trọng nhất đã xảy ra trước điều này. Ngày 10/11/2000, ngay sau khi có kết quả thống kê, các nhà tổ chức chiến dịch tranh cử của Gore đã yêu cầu một bản tường trình thủ công, công bố đầy đủ của 4 quận, nhưng lại là 4 quận có nhiều thành viên đảng Dân chủ nhất.

Yêu cầu minh bạch phiếu bầu của Gore đã mang lại một lợi thế rõ ràng cho phe Bush. Cuối cùng, Tòa án Tối cao nghiêng về phe Cộng hòa và tuyên bố ứng cử viên Bush đã chiến thắng với 537 phiếu. Thay vì yêu cầu minh bạch phiếu bầu trên toàn quốc, Gore đã sơ suất trong tính toán của mình. Rõ ràng, nước đi của Gore đã “tặng thêm” cho Bush 200 phiếu ủng hộ nữa.

Bốn năm sau đó, George W. Bush không cần đến việc kiểm phiếu lại để có chiến thắng, mà chỉ cần có sự hỗ trợ của Karl Rove, một chiến lược gia chính trị tàn nhẫn xuất sắc, với biệt danh Drake Turd Blossom. Chiến thắng tiếp theo của Bush cũng bởi ông có một đối thủ quá tự tin, tin tưởng rằng các chiến dịch bôi nhọ sẽ có hiệu quả trong các chiến dịch thực tế.

John Kerry được coi là một anh hùng chiến tranh, từng lãnh đạo nhiều nhiệm vụ nguy hiểm nhất tại Việt Nam. John Kerry bị thương ba lần và có nhiều huy chương. Sau trận chiến, thấy rõ sự tàn nhẫn và vô nghĩa của chiến tranh, Kerry trở thành một nhà hoạt động chống chiến tranh nổi tiếng. Ông đã phát động một sự nghiệp chính trị lâu dài, đỉnh cao là đề cử tổng thống của đảng Dân chủ 2004.

Karl Rove tổ chức chiến dịch truyền thông “Con tàu cựu binh vì sự thật”, với một ngân sách khiêm tốn, trong đó bôi nhọ Kerry và cho rằng ứng cử viên này đã phóng đại quá mức sự phục vụ của mình cũng như “tô hoa điểm lá” thêm vào “thành tích” trong chiến trận. Karl Rove đã nhanh chóng xua tan sức mạnh hình ảnh của Kerry bằng tiền và tin tức “xấu chơi” trên các phương tiện truyền thông.

Thay vì dập tắt một cuộc tấn công bằng sự thật, Kerry đã để câu chuyện giả dối về mình trôi nổi trong nhiều tháng mà không thực sự phản ứng. Cuối cùng, Turd Blossom đã làm được việc mà chiến tranh không thể làm: Nhấn chìm John Kerry.

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/the-gioi/tranh-cu-tong-thong-my-nhung-chien-dich-sai-lam-xAoa8QFMg.html