Trận quyết đấu Stalingrad - bước ngoặt của Thế chiến 2

Quân đội Liên Xô và phát xít Đức đã tung ra những lực lượng tinh nhuệ nhất cho trận đọ sức một mất một còn.

Năm nay tròn 75 năm kết thúc trận chiến Stalingrad lịch sử tại thành phố cùng tên, nay là Volgograd. Các sử gia gọi trận đánh này là bước đầu tiên tiến tới thắng lợi của Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới thứ 2.

Trận Stalingrad - bước ngoặt trong Thế chiến thứ 2 - là một trong các trận đánh tiêu biểu nhất lịch sử về nghệ thuật quân sự cũng như ý nghĩa xoay chuyển toàn cục. Nó có tác động tới không chỉ Chiến tranh Vệ quốc của Liên Xô mà cả toàn bộ Thế chiến thứ 2. Trong trận Stalingrad, Quân đội Liên Xô đã phải chiến đấu để chặn đứng rồi đẩy lui quân đội Đức, khi ấy đã chiếm gần như toàn bộ châu Âu. Sau thất bại tại Stalingrad, quân đội Đức đã không thể phục hồi sức mạnh như trước, cũng như không thể giành lại quyền chủ động ở mặt trận phía Đông, và buộc phải chuyển sang thế phòng ngự.

Giới sử học cũng coi đây là trận đánh có quy mô lớn nhất và đẫm máu nhất trong lịch sử quân sự thế giới. Trong trận đánh Stalingrad diễn ra trong nửa năm, tổng số người thương vong và mất tích của 2 bên ước tính khoảng 2 triệu. Nhiều thường dân cũng thiệt mạng do oanh kích và pháo kích.

Lính Đức tiến quân trên mặt trận Stalingrad (ảnh: ww2today.com)

Những người trực tiếp tham gia trận chiến này đã gọi nó là địa ngục trần gian. Có ngọn đồi ở trong thành phố có tên Mamayev Kurgan đã bị 2 bên chiếm đi chiếm lại vài lần. Hai phía đã dồn lực ở mức độ cao nhất có thể cho trận đánh này. Cả 2 đều quyết tử chiến, không lùi trước đối thủ. Mặc dù thất bại, phát xít Đức vẫn gây thiệt hại lớn cho Liên Xô về người và của.

Stalingrad là trung tâm hành chính của tỉnh Volgograd, một thành phố công nghiệp lớn và đầu mối giao thông quan trọng. Thành phố lại nằm trong khu vực sông Volga (vựa lúa mì) và gần vùng Kavkaz (vùng dầu lửa quan trọng của Liên Xô). Không những thế, thành phố lại mang tên lãnh tụ Liên Xô là Stalin, nên một trận chiến xảy ra ở đây sẽ mang ý nghĩa tinh thần và chính trị rất lớn đối với cả 2 bên. Ngay từ đầu cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô, Hitler đã xác định đây là một trong các mục tiêu chủ yếu.

Vào mùa hè năm 1942, quân đội phát xít đã không thể đánh chiếm Moscow bằng cách tấn công chính diện, nên quyết định chuyển hướng tấn công xuống khu vực sông Volga và vùng Kavkaz ở phía nam, để tạo bàn đạp tấn công Moscow từ phía sau. Mục tiêu chính trong chiến dịch này là thành phố Stalingrad.

Hitler trước đó tự tin sẽ nhanh chóng và dễ dàng chiếm được Stalingrad. Nhưng thực tế đã không như mong muốn của “trùm phát xít”.

Vài nét về diễn biến trận đánh lịch sử

Trận đánh Stalingrad kéo dài từ tháng 7/1942 đến tháng 2/1943, chia làm 2 giai đoạn chính là Hồng quân phòng ngự (từ tháng 7/1942 đến ngày 18/11/1942) và Hồng quân phản công (từ 19/11/1942 đến ngày 2/2/1943) với nhiều chiến dịch của cả hai phía.

Quân Đức mở màn bằng những trận giội bom dữ dội biến Stalingrad thành đống đổ nát, gây thiệt hại lớn về người cho cả quân và dân Staligrad. Sau đó là những loạt pháo kích dọn đường cho lục quân tiến lên.

Chó "chống tăng" mang bộc phá của Hồng quân. Đây là 1 giải pháp tình thế, khi Hồng quân thiếu xe tăng để đối chọi với quân Đức(ảnh: military.va1.ru)

Nhờ ưu thế về lực lượng (huy động tới 266 sư đoàn), phương tiện chiến tranh cũng như trình độ tác chiến, đến giữa tháng 8/1942, quân phát xít đã tiến được vào nội đô Stalingrad. Tập đoàn tăng thiết giáp số 4 của Đức gác vòng ngoài, còn tập đoàn quân số 6 trực tiếp cận chiến sâu trong thành phố và chiếm được 90% diện tích thành phố này, đẩy lùi quân Liên Xô về sát bờ tây sông Volga. Tuy nhiên, chúng vẫn không tài nào tiêu diệt được các ổ đề kháng còn lại của Hồng quân.

Vào ngày 27/7, Lãnh tụ Liên Xô là Nguyên soái Stalin đã ra mệnh lệnh nổi tiếng “không lùi một bước”. Quân dân Liên Xô ở chiến trường Stalingrad đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng với tinh thần “không lùi dù chỉ một bước”.

Trước sức vây ép của quân Đức và thương vong quá lớn, Tướng Chuikov chỉ huy Tập đoàn quân 62 của Hồng quân từng xin phép rút lui qua sông Volga nhằm bảo toàn lực lượng nhưng ông đã được cấp trên ra lệnh tử thủ, giữ vững “nút sống” này bằng mọi giá.

Để cải thiện thêm khả năng bám trụ của binh sĩ trước sự khắc nghiệt của cuộc chiến, Liên Xô đã đẩy mạnh công tác Đảng, công tác tư tưởng và hàng loạt biện pháp thắt chặt kỷ luật chiến trường, nâng cao tinh thần chiến đấu của binh sĩ.

Trong giai đoạn đầu, phía Hồng quân trình độ tác chiến nói chung và hiệp đồng binh chủng nói riêng kém hơn, nhưng bù lại họ có chính nghĩa trong cuộc chiến, và tinh thần chiến đấu rất kiên cường. Về sau họ được hỗ trợ thêm bởi sức mạnh của ngành công nghiệp quốc phòng nước này.

Bộ binh Liên Xô bám trụ trong đống đổ nát của Stalingrad (ảnh: ww2today.com)

Trong khi đó lính Đức cũng quyết chiến đến cùng. Chúng cũng cần Stalingrad làm nơi trú ngụ trước mùa Đông lạnh giá của nước Nga.

Công bằng mà nói, lính Đức rất thiện chiến và dũng mãnh (thậm chí khi bị đánh thiệt hại nặng vẫn duy trì được ý thức kỷ luật cao). Ngay cả khi quân Đức đã tan rã từng mảng, vẫn có nhiều đơn vị lẻ tẻ kháng cự một cách dai dẳng.

Một mối nguy hiểm lớn nhất đối với Hồng quân là những cỗ xe tăng Đức, điều làm cho Hitler rất tự tin vào chiến thắng tại Stalingrad.

Tình hình nguy ngập đến mức, Nguyên soái Zhukov của Liên Xô từng sử dụng cả chó cảm tử để mang bộc phá đánh xe tăng Đức. (Truyền thông phát xít sau đó đã lợi dụng điều này để tuyên truyền rằng lính Nga không dám đánh trận và dùng chó thay thế). Những chú chó lính tỏ ra nguy hiểm khi rất nhanh nhẹn và khó phát hiện (vì thấp). Lính Đức về sau được lệnh bắn tất cả những chú chó lai vãng vị trí chiến đấu.

Tập đoàn quân 62 của Hồng quân có nhiệm vụ giữ thành phố bằng bất cứ giá nào và làm “mồi nhử kìm chân quân Đức”. Tướng Chuikov đã chỉ huy bám chắc lấy các căn nhà, tòa nhà gần các vị trí xung yếu trong thành phố, thực hiện chiến thuật “nắm lấy thắt lưng địch mà đánh” nhằm hạn chế ưu thế hỏa lực và cơ động của đối phương.

Quân Đức giỏi hiệp đồng binh chủng và đánh lớn trên địa bàn rộng với các vũ khí hạng nặng. Tuy nhiên khi quân hai bên đan cài vào nhau thì phi cơ, xe tăng, và trọng pháo không phát huy tác dụng do Đức lo ngại sẽ đánh trúng quân mình.

Chiến sự diễn ra giữa tầng này với tầng kia trong cùng tòa nhà (ảnh: Ria Novosti)

Chiến tranh trong đô thị mang tính phi chính quy cao, đòi hỏi sự quả cảm, kiên cường và mưu trí đặc biệt. Trong giai đoạn cầm cự, Hồng quân đã triệt để thực hiện cận chiến đường phố, giành giật với quân thù từng góc phố, căn nhà, căn hầm. Nhiều lúc xảy ra tình thế “kẹp bánh mì”, trong đó quân Đức chiếm giữ tầng 2, còn quân Liên Xô ở tầng 3 và tầng 1. Hai bên còn quần thảo trong hệ thống cống ngầm chằng chịt của thành phố. Trong thời kỳ này còn nổi lên lối đánh bằng súng bắn tỉa. Trong các trận “so găng” kiểu này, các tay súng thiện xạ phía Liên Xô có vẻ áp đảo hơn.

Để tiến được từng thước đất, lính Đức đã phải đổ rất nhiều máu. Một sĩ quan Đức đã viết: “Các con phố không còn được đo bằng mét nữa mà bằng các xác chết… Stalingrad không còn là một thành phố mà đã thành một đám mây bốc cháy… một lò lửa khổng lồ… Đến loài vật còn phải chạy trốn khỏi địa ngục này, chỉ có con người là trụ lại được.”

Phản công và bao vây quân Đức

Lãnh đạo Liên Xô đã âm thầm chuẩn bị trong 2 tháng cho một chiến dịch phản công quyết định. Trong lúc Tướng Chuikov cầm chân quân Đức, còn các mặt trận khác đánh nghi binh phối hợp thì một lực lượng lớn quân Liên Xô, chủ yếu từ Siberia, đã được bí mật tập trung về Stalingrad.

Chiến dịch Uran do Hồng quân tiến hành từ 19-23/11/1942 đã giúp Liên Xô bao vây Tập đoàn quân số 6 của Đức, các tập đoàn số 3 và 4 của Romania và một bộ phận của Tập đoàn tăng thiết giáp số 4 của Đức.

Nội đô Stalingrad (ảnh: Itar-Tass)

Sáng sớm ngày 19/11/1942, hàng ngàn khẩu pháo Xô viết bắn cấp tập vào các vị trí của quân Đức Quốc xã, mở màn cuộc phản công. Sử dụng một lực lượng lớn cơ giới và xe tăng, Hồng quân đã đột kích nhanh và mạnh, chọc thủng vùng sườn quân Đức đang bị căng mỏng và chỉ được bảo vệ bởi lực lượng quân chư hầu Romania và Hungary, hình thành thế bao vây quân Đức.

Chỉ vài ngày sau đó, gần 350.000 lính và sĩ quan Đức đã bị nhốt chặt trong vòng vây của quân đội Xô viết.

Hoảng sợ trước tình hình này, Hitler vội phái Thống chế Manstein có tài thao lược bậc nhất của Đức Quốc xã đến để giải vây. Không hổ danh, ông này đã gây nhiều khó khăn cho Hồng quân.

Sau đó tiếp tục diễn ra những trận chiến đấu ác liệt. Quân Đức thì trong đánh ra ngoài đánh vào, còn Hồng quân thì vừa khép chặt vòng vây, vừa phá vây. Đạo quân của Manstein cuối cùng bị đánh bật ra xa. Tất cả các nỗ lực phá vây của phát xít Đức rơi vào vô vọng. Các đường tiếp liệu bị cắt đứt, một bộ phận lính Đức bắt đầu lả dần vì đói và rét.

Sau khi thất bại trong việc kêu gọi đối phương hạ vũ khí, từ 10/1 đến 2/2/1943, Hồng quân mở cuộc tấn công tiêu diệt lực lượng Đức bị bao vây, kết quả diệt được 2 phần 3 số này và bắt sống số còn lại, bao gồm tư lệnh Tập đoàn quân số 6 Paulus và 24 viên tướng. (Nước Đức Quốc xã sau đó đã quyết định làm quốc tang cho binh sĩ chết trong trận Stalingrad).

Trước đợt tấn công của Hồng quân từ 10/1 đến 2/2, Thống chế Paulus từng xin phép Hitler để được đầu hàng nhưng Hitler đã ra lệnh “chiến đấu đến người lính cuối cùng và viên đạn cuối cùng”. Sau một thời gian cầm cự thêm, Paulus đã “thức thời” hạ lệnh đầu hàng bất chấp Hitler để bảo toàn mạng sống cho số binh lính dưới quyền còn lại

Theo Trung Hiếu (VOV)

Nguồn Dân Việt: http://danviet.vn/dong-tay-kim-co/tran-quyet-dau-stalingrad-buoc-ngoat-cua-the-chien-2-923733.html