Trách nhiệm bảo mật thông tin về tài khoản của người nộp thuế

Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin về tài khoản của người nộp thuế và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của thông tin theo quy định của Luật Quản lý thuế và quy định của pháp luật có liên quan.

Quang cảnh buổi họp báo. (Ảnh: M.P) .

Quang cảnh buổi họp báo. (Ảnh: M.P) .

Chiều 1/12, Tổng cục Thuế đã tổ chức buổi họp báo chuyên đề giới thiệu về một số điểm mới đáng chú ý của Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14.

Tại buổi họp báo, ông Lưu Đức Huy, Vụ trưởng Vụ Chính sách (Tổng cục Thuế) cho biết, Luật Quản lý thuế số 38 có quy định về trách nhiệm của ngân hàng thương mại (NTHM) trong việc cung cấp thông tin về số hiệu tài khoản theo mã số thuế của người nộp thuế khi mở tài khoản và khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam.

Căn cứ theo quy định tại Luật Quản lý thuế, tại Nghị định số 126 (Khoản 2, Khoản 3 Điều 30) có quy định: NHTM có trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế, bao gồm: tên chủ tài khoản, số hiệu tài khoản theo mã số thuế đã được cơ quan quản lý thuế cấp, ngày mở tài khoản, ngày đóng tài khoản.

Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm bảo mật thông tin và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của thông tin theo quy định của Luật Quản lý thuế và quy định của pháp luật có liên quan.

Theo ông Lưu Đức Huy, theo quy định này, NHTM sẽ chỉ cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản thanh toán và chỉ cung cấp những thông tin định danh cơ bản cho cơ quan thuế, không bao gồm các thông tin liên quan đến giao dịch của các tài khoản này.

Thông tin thêm về vấn đề này, ông Đặng Ngọc Minh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết, hiện nay cơ quan thuế cũng đã phối hơp cung cấp cho các ngân hàng mã số thuế của người nộp thuế nên việc các ngân hàng cung cấp thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế cho cơ quan thuế là vấn đề hợp tác về cơ sở dữ liệu bình thường và hoàn toàn làm được.

Ông Minh cũng cho rằng thực tế thì các ngân hàng hoàn toàn làm được việc này. Năm 2016, bản thân các NHTM cũng đã kiến nghị với NHNN ký hiệp định trao đổi thông tin tài khoản của tổ chức, cá nhân là người Hoa Kỳ hoặc cư trú tại Hoa Kỳ với nước này. Theo đó, các NHTM không chỉ cung cấp các thông tin định danh mà còn cung cấp cả các giao dịch về tài sản của những cá nhân, doanh nghiệp đó để cung cấp cho cơ quan thuế tại Mỹ. Hiệp định đó giờ vẫn có hiệu lực.

“Bây giờ Chính phủ mới có quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các NHTM nhưng thực ra từ 2016, các NHTM đã có khả năng theo dõi, cung cấp các thông tin tài khoản cá nhân, doanh nghiệp của Hoa Kỳ cung cấp cho cơ quan thuế của họ. Vì vậy, tôi nghĩ việc Chính phủ yêu cầu NHTM cung cấp thông tin cho cơ quan thuế trong nước không có gì quá khó khăn” – ông Minh nói.

Riêng quy định “NHTM có trách nhiệm cung cấp thông tin giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản, số liệu giao dịch theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế để phục vụ cho mục đích thanh tra, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế phải nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế theo quy định của pháp luật về thuế", theo khẳng định của Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh đây không phải quy định mới.

Cũng theo ông Minh, việc cung cấp thông tin không gây ảnh hưởng cho khách hàng hay lo ngại làm khó cho ngân hàng vì Tổng cục Thuế có thông tư hướng dẫn theo cơ sở dữ liệu cho ngân hàng và hoàn toàn bảo mật thông tin người nộp thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Và việc yêu cầu cung cấp tài khoản ngân hàng chủ yếu nhằm quản lý các giao dịch qua mạng từ Facebook, Google, Youtube không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân trong nước...

Liên quan đến vấn đề tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 3 quý, tại buổi họp báo ông Đặng Ngọc Minh cho biết, Luật Quản lý thuế số 38 có quy định đối với thuế TNDN, doanh nghiệp thực hiện tạm nộp theo quý và quyết toán thuế theo năm.

Lãnh đạo Tổng cục Thuế phân tích, Nghị định số 126 sửa đổi quy định về nghĩa vụ tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý, cụ thể tại điểm b, khoản 6, điều 8 Nghị định số 126 quy định: “Tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp đã tạm nộp của 3 quý đầu năm tính thuế không được thấp hơn 75% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp theo quyết toán năm. Trường hợp người nộp thuế (NNT) nộp thiếu so với số thuế phải tạm nộp 3 quý đầu năm thì phải nộp tiền chậm nộp tính trên số thuế nộp thiếu kể từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn tạm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quý 3 đến ngày nộp số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước.”

Về phân bổ nghĩa vụ thuế đối với trường hợp NNT hạch toán tập trung tại trụ sở chính nhưng có đơn vị phụ thuộc, địa điểm kinh doanh tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính

Khoản 3, điều 42 Luật Quản lý thuế số 38 quy định: “NNT thực hiện khai thuế, tính thuế tại cơ quan thuế địa phương có thẩm quyền nơi có trụ sở. Trường hợp NNT hạch toán tập trung tại trụ sở chính, có đơn vị phụ thuộc tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính thì NNT khai thuế tại trụ sở chính và tính thuế, phân bổ nghĩa vụ thuế phải nộp theo từng địa phương nơi được hưởng nguồn thu ngân sách nhà nước”.

Minh Phương

Nguồn ĐCSVN: https://dangcongsan.vn/kinh-te/trach-nhiem-bao-mat-thong-tin-ve-tai-khoan-cua-nguoi-nop-thue-569031.html