Tổ chức bộ máy tam quyền phân lập ở Nhật Bản và một vài giá trị về dân chủ

ThS. PHAN TUẤN LY (Khoa Ngoại ngữ Pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT:

Bài viết đã giải quyết một số vấn đề như xác định và đưa ra cách hiểu cơ bản về dân chủ (tư sản); Nghiên cứu cơ cấu tổ chức bộ máy tam quyền phân lập ở Nhật Bản; Đúc kết các giá trị dân chủ từ việc tổ chức bộ máy nhà nước.

Thông qua việc tổ chức bộ máy nhà nước tam quyền phân lập, người dân có thể tham gia vào việc kiểm soát quyền lực của các cơ quan lập pháp - hành pháp - tư pháp. Dân chủ trong tổ chức bộ máy nhà nước thể hiện qua 2 nội dung: (1) các cơ quan nhà nước kìm chế - đối trọng lẫn nhau để kiểm soát việc thực thi quyền lực; (2) người dân trực tiếp tham gia vào việc kiểm soát các cơ quan này.

Từ khóa: Tam quyền phân lập, dân chủ Nhật Bản, bộ máy nhà nước Nhật Bản.

1. Đặt vấn đề

Nhật Bản là quốc gia phát triển kinh tế bậc nhất ở Châu Á. Đi cùng với sự phát triển kinh tế, mức độ dân chủ cũng luôn được thế giới đánh giá cao. Để xây dựng một nền chính trị dân chủ như vậy, Nhật Bản đã sử dụng rất nhiều biện pháp và phương thức khác nhau. Trong số đó, tổ chức bộ máy nhà nước là một trong những phương thức hữu hiệu hàng đầu để ghi nhận các giá trị dân chủ. Hiện chưa có nghiên cứu cụ thể và riêng biệt về về các giá trị dân chủ biểu hiện trong tổ chức bộ máy tam quyền phân lập. Bài viết phân tích về “tổ chức bộ máy tam quyền phân lập ở Nhật Bản và một vài giá trị dân chủ” nhằm giải quyết vấn đề xác định và đưa ra cách hiểu cơ bản về dân chủ (tư sản); nghiên cứu cơ cấu tổ chức bộ máy tam quyền phân lập ở Nhật Bản; đúc kết các giá trị dân chủ từ trong việc tổ chức bộ máy nhà nước.

2. Lý luận về dân chủ

Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội, tồn tại rất lâu đời, từ khi hình thành nhà nước và pháp luật. Dân chủ và tự do là hai khái niệm không thể tách rời. Bài viết đã trình bày một số khái niệm về dân chủ, có thể đúc kết cách hiểu cơ bản về dân chủ làm nền tảng lý luận cho nghiên cứu tổ chức bộ máy nhà nước Nhật Bản.

Theo từ điển, “dân chủ” (democracy) được hiểu là “niềm tin rằng mọi người trong một quốc gia đều có quyền bày tỏ ý kiến của mình và quyền lực đó phải được nắm giữ bởi những người được bầu hoặc một hệ thống chính phủ được hình thành dựa trên niềm tin này” (Từ điển Cambrigde Online, Anh quốc). Như vậy, “dân chủ” ghi nhận các giá trị: quyền được nói của người dân được tôn trọng; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và được hiện thực hóa bởi những đại diện của người dân.

Ở phương Tây, nhiều học giả cũng đã xuất bản hàng loạt tác phẩm về “dân chủ”, nhưng khái niệm “dân chủ” vẫn là một khái niệm có nhiều tầng ý nghĩa và được sử dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau, thậm chí nội hàm của khái niệm cực kỳ đa dạng khi thế giới bước vào thế kỷ XX (David Held, 2008, tr. 125).

“Dân chủ không chỉ đơn thuần là một loạt thể chế quản lý cụ thể. Dân chủ dựa trên nhóm giá trị, quan điểm và thực tiễn đã được nhận thức rõ. Tất cả các giá trị, quan điểm và thực tiễn đó được thể hiện dưới những hình thức khác nhau tùy theo nền văn hóa và các xã hội trên thế giới. Các nền dân chủ phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản chứ không phải những thực tiễn thống nhất” (Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, tr. 5).

Quan điểm của chủ nghĩa Mác, “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì con người,… Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy” (C.Mác & Ph.Ăngghen, 1995, tr.350). Dân chủ được thể hiện dưới hai khía cạnh: một là, dân chủ là hình thức tổ chức bộ máy nhà nước, mà ở đó quyền lực thuộc về nhân dân; hai là, dân chủ là giá trị tiến bộ xã hội (Lê Thị Thu Mai, 2018, tr.33).

Từ những khái niệm cơ bản trên, có thể rút ra một số đặc điểm chung để nhận dạng “dân chủ” trong một thể chế chính trị: (1) Quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân trong nền chính trị dân chủ; (2) Nguyên tắc đa số quyết định thiểu số được tuân thủ trong chế độ dân chủ; (3) Bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ trọng tâm của dân chủ; (4) Thừa nhận quyền tham chính là một phần của quyền con người. Những đặc trưng này sẽ được dùng để soi chiếu dân chủ trong tổ chức bộ máy nhà nước Nhật Bản.

3. Tổ chức bộ máy tam quyền phân lập ở Nhật Bản hiện nay

Tam quyền phân lập theo mô hình của Mỹ được áp dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước Nhật Bản. Theo các nhà khoa học pháp lý ở Nhật Bản, quyền lực nhà nước được phân thành 2 lĩnh vực rõ rệt: lĩnh vực chính trị (bao gồm Quốc hội và Nội các) và lĩnh vực pháp lý (thuộc về Tòa án). Tổ chức bộ máy nhà nước tam quyền phân lập được xây dựng dựa trên nguyên tắc “pháp quyền” (hounoshihai hoặc rule of law trong tiếng Anh), gồm 3 cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.

3.1. Cơ quan lập pháp

Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất và cơ quan lập pháp duy nhất ở Nhật Bản, là cơ quan do nhân dân bầu ra thông qua tổng tuyển cử. Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, Quốc hội bầu ra Thủ tướng của Nội các. Nghị sĩ Quốc hội do nhân dân bầu ra theo phương thức bầu cử phổ thông. Nghị sĩ được bầu ra bằng phương thức tiểu khu hoặc theo tỉ lệ đại diện. Trong Hiến pháp Minh Trị, Quốc hội là cơ quan mang tính “thân phận” (mibunsei gikai, còn được gọi là quốc hội “đẳng tộc - touzoku gikai” hoặc “tam bộ hội - sanbukai”) (Higuchi Youichi, 2010, tr. 322), có nghĩa là nghị sĩ là đại diện cho chính khu vực mình được bầu ra hoặc giới thiệu, chứ không phải đại diện cho nhân dân cả nước. Chẳng hạn trong Quốc hội đẳng tộc của châu Âu trước đây, gồm những thành viên xuất thân từ 3 “thân phận”: giáo chức (người của Ki tô giáo), giới quý tộc và giới tư sản giàu có (Katsuta Aritsune, Mori Seiichi, Yamauchi Susumu, 2012, tr. 221). Tuy nhiên, theo Hiến pháp hiện hành, nghị sĩ khi đã trúng cử, họ không phải chỉ đại diện cho tiểu khu hay đảng phái chính trị của họ, mà sẽ trở nên độc lập với tiểu khu đã bầu và ngay cả đảng phái chính trị trực thuộc. Họ hành động với tư cách nghị sĩ theo lương tâm của bản thân họ, đại diện cho nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Đây là chức năng đại diện của Quốc hội.

Ngoài ra, Quốc hội còn thực hiện hai chức năng khác, là cơ quan quyền lực tối cao (chức năng nắm giữ quyền lực nhà nước) và lập pháp duy nhất (chức năng lập pháp) của Nhật Bản (Điều 41 Hiến pháp). Quốc hội được trao cho chức năng là “cơ quan lập pháp duy nhất”. Cơ quan lập pháp duy nhất được hiểu là hoạt động lập pháp thực chất phải do Quốc hội thực hiện một cách độc lập bằng nghị quyết (nguyên tắc Quốc hội đơn độc - Kokkai tandoku Rippou no Gensoku) (Higuchi Youichi, 2010, tr. 347). Tuy nhiên, chức năng lập pháp này không tuyệt đối ở Nhật Bản. Chức năng lập pháp ở Nhật được hiểu, Quốc hội là cơ quan xem xét và công nhận các dự thảo pháp luật đa phần do Chính phủ đề xuất. Chính vì vậy, chức năng lập pháp của Quốc hội Nhật Bản về bản chất chỉ là chức năng “kiểm soát” tính dân chủ của Chính phủ trong hoạt động thực thi quyền lực nhà nước (Takahashi Kazuyuki, 2010, tr. 324).

Quốc hội Nhật Bản được tổ chức theo mô hình lưỡng viện, gồm Thượng viện (sangiin) và Hạ viện (shuugiin). Nhiệm kỳ của Hạ viện là 4 năm và Thượng viện là 6 năm, trong đó 3 năm tiến hành bầu cử lại một nửa số nghị viên. Đứng đầu mỗi Viện là Nghị trưởng, dưới Nghị trưởng có Phó Nghị trưởng. Bên trong các Viện đều được thành lập các Ủy ban (iinkai) gồm hai nhóm: Ủy ban thường trực (jounin iinkai) và Ủy ban đặc biệt (tokubetsu iinkai). Đứng đầu các Ủy ban là Trưởng Ủy ban (iinchou). Thượng viện và Hạ viện có quyền hạn ngang nhau và bình đẳng với nhau. Tuy nhiên, để tránh sự “đối lập tuyệt đối” trong việc quyết định các vấn đề quốc gia thì Hiến pháp ghi nhận sự “ưu tiên” của Hạ viện so với Thượng viện.

3.2. Cơ quan hành pháp

Điều 65 Hiến pháp thừa nhận rằng “Nội các là cơ quan nắm giữ quyền hành pháp”. Với tư cách là cơ quan thực hiện chức năng hành pháp trong quyền lực quốc gia, Nội các và Quốc hội là hai cơ quan “thống trị” trong lĩnh vực chính trị1. Và, trong lĩnh vực chính trị, Chính phủ là trụ cột trung tâm. Chức năng thứ hai của Chính phủ là nắm giữ quyền hành pháp. Đặt trong mối quan hệ với quyền lập pháp và tư pháp thì, quyền hành pháp được hiểu là quyền thực thi (shikkou). Chính phủ làm hiện thực hóa pháp luật của Quốc hội trên đời sống của người dân. Và việc “thực thi” này không phải là một hoạt động thụ động mà phải là một hoạt động “chủ động và tích cực”. Chức năng thứ ba của Chính phủ là chỉ huy, giám sát các cơ quan hành chính (gyousei kakubu) (Điều 72 Hiến pháp). Đứng đầu các cơ quan hành chính là các Bộ trưởng, là những thành viên của Chính phủ. Thực hiện tốt 3 chức năng này là cơ sở để hình thành một nền dân chủ tư sản hiện đại.

Chính phủ bao gồm Thủ tướng là người đứng đầu và các bộ trưởng (Điều 66 Hiến pháp). Thủ tướng được Quốc hội bổ nhiệm trong số các thành viên của Quốc hội, có thể là thành viên của Hạ viện hoặc Thượng viện. Thủ tướng có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các bộ trưởng một cách tự do (Điều 68 Hiến pháp). Thủ tướng làm việc theo chế độ thủ trưởng, chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Bộ trưởng là thành viên của Chính phủ, do Thủ tướng chỉ định. Quá bán số lượng Bộ trưởng phải là thành viên của Quốc hội (Điều 68 Khoản 1 Hiến pháp). Hiện nay, theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ, số lượng bộ trưởng về nguyên tắc là không quá 14 người (Điều 2 Khoản 2).

Trách nhiệm của Chính phủ cũng là một khía cạnh thể hiện hoạt động của cơ quan nắm giữ quyền hành pháp. Trách nhiệm ở đây được hiểu là trách nhiệm chính trị, dù trong trường hợp Nội các tổng từ chức lại mang “màu sắc của trách nhiệm pháp lý (Ashibe Nobuyoshi, 2004, tr. 299). Chính phủ hoạt động dựa trên nguyên tắc “thống nhất toàn thành viên” (zen-in icchi). Nguyên tắc này đòi hỏi các quyết định hoặc hành vi của Chính phủ đều phải được tất cả các thành viên thông qua. Nếu có thành viên không thông qua, hành vi hoặc quyết định đó sẽ không trở thành ý chí của Chính phủ.

3.3. Cơ quan tư pháp

Nguyên tắc pháp quyền ghi nhận sự tồn tại của hệ thống cơ quan thứ ba bên cạnh hệ thống cơ quan lập pháp và hành pháp. Đó là hệ thống cơ quan tư pháp - tòa án. Tòa án thực hiện chức năng tư pháp, có nghĩa là trực tiếp thực hiện quyền tư pháp. Ra đời trong bối cảnh và được đặt vào một vị trí như vậy trong hệ thống quyền lực nhà nước, nên quyền tư pháp phải thực hiện 2 chức năng cơ bản sau: (1) cơ quan trung gian để ngăn ngừa sự lạm quyền và việc gia tăng “cái tôi” (jiko) trong quá trình sử dụng quyền lực nhà nước của cơ quan lập pháp và hành pháp; (2) cơ quan giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng quyền lực nhà nước bằng phán quyết “chung thẩm”; Tòa án ở Nhật Bản được trao cho quyền tư pháp, với chức năng trung tâm là “xét xử”. Hiện nay, hệ thống tòa án được phân thành 2 loại, gồm Tòa án Tối cao (saikou saibansho) và Tòa án cấp dưới (kakyuu saibansho).

Tòa án Tối cao là cơ quan cao nhất của hệ thống tòa án Nhật Bản, đứng đầu bởi Chánh án Tòa án Tối cao. Chánh án Tòa án Tối cao do Chính phủ chỉ định và được Thiên hoàng bổ nhiệm (Điều 6 Khoản 2 Hiến pháp). Thẩm phán Tòa án Tối cao do Chính phủ bổ nhiệm (Điều 79 Khoản 1 Hiến pháp) và được Thiên hoàng công nhận (Điều 7 Khoản 5 Hiến pháp). Tòa án Tối cao được giám sát bởi nhân dân thông qua chức năng “kokumin shinsa” (thẩm tra công dân). Tòa án cấp dưới (kakyuu saibansho) được tổ chức bao gồm các loại tòa án sau: Tòa Cấp cao (koutou saibansho), Tòa Địa phương (chihou saibansho), Tòa Gia đình (katei saibansho) và Tòa Giản đơn (kan-i saibansho). Thẩm phán của Tòa án cấp dưới được chia thành 3 cấp bậc: hanji, hanjiho và kan-i saibansho hanji.

Chế độ tài phán viên (saiban-in) được ban hành vào năm 2004 và được thực thi từ tháng 5/2009. Đây là chế độ “giao thoa” giữa chế độ “bồi thẩm đoàn” (baishinsei) và chế độ “tham thẩm” (sanshinsei). Theo đó, tài phán viên là những người bình thường, không phải thẩm phán chuyên nghiệp, nhưng vẫn tham gia xét xử với tư cách là những người bổ sung phần chưa đủ của các thẩm phán chuyên nghiệp. Dưới góc độ này, tài phán viên cũng là một cơ chế để nhân dân tham gia vào quyền tư pháp, góp phần mở rộng dân chủ ở Nhật Bản (Hirowatari Seigo, 2010, tr. 82).

4. Các giá trị dân chủ từ mô hình tổ chức bộ máy nhà nước hiện tại 4.1. Dân chủ thể hiện qua kiểm soát quyền lực nhà nước bằng phương thức “kìm chế - đối trọng”

Một nền dân chủ tư sản hiện đại thực sự được hình thành khi và chỉ khi quyền lực nhà nước được thực hiện thực sự vì lợi ích chung của nhân dân. Quốc hội kìm chế và đối trọng với Nội các thông qua 2 quyền năng: quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Nội các và quyền bầu ra Thủ tướng. Trong trường hợp Hạ viện thông qua Nghị quyết bất tín nhiệm thì tất cả các thành viên Nội các sẽ bị buộc phải tổng từ chức. Ngược lại, Nội các cũng được ghi nhận các quyền nhằm thực hiện kìm chế và đối trọng lại với nhánh quyền lực lập pháp. Cụ thể, Nội các có quyền giải tán Hạ viện và tiến hành tổng tuyển cử lại. Giải tán được hiểu là “hành vi làm mất tư cách2 của nghị sĩ trước khi kết thúc nhiệm kỳ” (Ashibe Nobuyoshi, 2004, tr. 305). Nội các cũng có quyền triệu tập Quốc hội khi cần thiết.

Quốc hội là chủ thể có thẩm quyền tiến hành “tài phán chỉ trích” (dangai saiban) đối với các thẩm phán của hệ thống tòa án. Chính phủ có quyền chỉ định Chánh án Tòa án Tối cao và bổ nhiệm các thẩm phán của nhánh quyền lực tư pháp. Ngược lại, Tòa án lại được ghi nhận quyền “thẩm tra vi hiến” (iken shinsaken) đối với các đạo luật của Quốc hội và các hành vi hành chính cũng như văn bản của cơ quan thuộc nhánh quyền lực hành pháp. Quyền thẩm tra vi hiến là quyền hạn của tòa án “đưa ra phán quyết về tính hợp hiến của những thứ như là văn bản quy phạm pháp luật” của các cơ các cơ quan có thẩm quyền (Urabe Noriho, Ookubo Shirou, Mori Hideki, 2002, tr. 269).

Kìm chế và đối trọng giữa Chính phủ và Tòa án được thể hiện qua 2 khía cạnh: Thủ tướng có quyền chỉ định Chánh án Tòa án tối cao, cũng như bổ nhiệm các thẩm phán; ngược lại, Tòa án có quyền thực thi quyền thẩm tra vi hiến, vi pháp đối với việc thực hiện chức năng của Chính phủ. Thực hiện việc kìm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực là cơ hội để phát huy vai trò của nhân dân - người chủ thực sự của quyền lực trong một nền dân chủ tiên tiến. Nhân dân luôn là đối tượng mà cả Nội các lẫn Quốc hội đều phải coi là trung tâm của quyền lực.

4.2. Dân chủ thể hiện trong tổ chức Quốc hội

Quốc hội là cơ quan do nhân dân bầu ra bằng con đường bầu cử. Như vậy, dân chủ trong tổ chức Quốc hội được thể hiện thông qua việc bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử. Nhật Bản áp dụng phương thức bầu cử phổ thông, bình đẳng. Tất cả các công dân từ đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử, bất kể giới tính nam hay nữ. Để ứng cử cần phải thỏa mãn tiêu chuẩn cao hơn về độ tuổi. Hầu hết các cuộc bầu cử tại Nhật Bản đều đặt ra điều kiện của người ứng cử phải từ đủ 25 tuổi trở lên. Riêng đối với ứng cử nghị viên Thượng viện và nghị viên của To-do-fu-ken (Đô - Đạo - Phủ - Huyện)3 phải có độ tuổi từ đủ 30 trở lên.

Bầu cử ở Nhật Bản được thực hiện thông qua 2 phương thức: Phương thức bầu theo khu/tiểu khu (shosenkyoukusei) và phương thức bầu theo tỷ lệ đại biểu (hireidaihyousei). Phương thức bầu cử theo khu/tiểu khu là phương thức chia khu vực bầu cử, khu vực bầu 1 đại biểu là tiểu khu (shoku), từ 2 đại biểu trở lên gọi là khu (ku). Phương thức bầu cử đại diện là phương thức bầu cho đảng phái chính trị, rồi sau đó phân bổ số lượng đại biểu dựa trên số phiếu có được của từng đảng phái. Bầu cử phổ thông phải đảm bảo 3 nguyên tắc cơ bản: Bình đẳng - trực tiếp - bí mật. Nguyên tắc bình đẳng được thể hiện thông qua việc mỗi người có một lá phiếu ngang nhau. Bầu cử được tiến hành trực tiếp cho người ứng cử. Và, lá phiếu của cử tri sẽ là lá phiếu không ghi tên họ (vô danh hay bỏ phiếu kín). Việc kiểm phiếu phải đảm bảo tính nhanh chóng (hayasa) và tính chính xác (seikakusa). Từ những phân tích về quy định bầu cử để có thể tổ chức Quốc hội, có thể thấy quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tối đa. Thông qua đó, các giá trị dân chủ được đảm bảo.

4.3. Dân chủ thể hiện trong tổ chức Chính phủ

Chính phủ là cơ quan thực thi quyền hành pháp trong tổ chức bộ máy nhà nước. Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu và các Bộ trưởng được Thủ tướng chỉ định. Từ phương diện nàycho thấy, quyền làm chủ của người dân chỉ chủ yếu thông qua việc bổ nhiệm Thủ tướng của Quốc hội. Nhưng thực chất, còn một “phương tiện” cũng hết sức hữu hiệu trong việc truyền tải ý chí của người dân đến cơ quan thực thi quyền hành chính, đó chính là “dư luận”. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ của truyền thông đa phương tiện, dư luận được xem là một vũ khí sắc bén để kiểm soát quyền lực của cơ quan hành pháp (Iwabuchi Miki, 2007, tr. 13).

Dư luận được hiểu như một hình thức tập hợp tất cả các ý kiến của người dân được thể hiện một cách tự do (Oshi Yutaka, 2011, tr. 110). Mục đích của việc thăm dò dư luận là để xác định thái độ của một nhóm người cụ thể về những vấn đề cần điều tra. Việc thăm dò dư luận được tiến hành một cách khoa học, thể hiện thông qua 2 nội dung: Một là, cơ quan thăm dò dư luận không phải là một cơ quan tự ứng cử mà là một cơ quan được lựa chọn mang tính đại diện (daihyousei); Hai là, ngôn từ được sử dụng trong các câu hỏi mang tính cân đối (baransu). Để có thể tiến hành một cách khoa học và mang tính đại diện, việc thăm dò dư luận được thực hiện chủ yếu thông qua 2 phương thức lấy ý kiến: Phương thức lấy mẫu ngẫu nhiên (musakui hyouhon chuushutsuhou) và phương thức lấy mẫu được chỉ định (wariate hyouhon chushutsuhou). Thông qua các cuộc thăm dò dư luận, Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước sẽ phải cân nhắc và điều chỉnh hoạt động nhằm phù hợp với ý chí và nguyện vọng của người dân.

4.4. Dân chủ thể hiện trong tổ chức cơ quan Tòa án

Trong tổ chức bộ máy, Hiến pháp Nhật Bản cũng quy định về quyền làm chủ của người dân đối với quyền tư pháp thông qua chế độ “công dân thẩm tra” đối với các thẩm phán của Tòa án Tối cao. Việc thẩm tra này được tiến hành thông qua một cuộc bỏ phiếu của người dân. Cuộc bỏ phiếu này được tiến hành cùng thời điểm với việc bầu cử Hạ viện. Phương thức của cuộc bỏ phiếu được tiến hành hết sức đơn giản, người dân chỉ cần gạch dấu [X] vào ô trống cạnh tên của các thẩm phán Tòa án Tối cao được in sẵn. Nếu số lượng phiếu có dấu [X] nhiều hơn số lượng phiếu trắng thì thẩm phán đó sẽ bị bãi nhiệm. Như vậy, thông qua hoạt động “thẩm tra” này, quyền lực của cơ quan tư pháp rõ ràng đã bị kiểm soát một cách khá hiệu quả. Từ đó, dân chủ trong tổ chức cơ quan tư pháp cũng được đảm bảo.

5. Kết luận

Bộ máy nhà nước Nhật Bản được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập rõ nét theo mô hình của các quốc gia tư sản phương Tây. Quyền lập pháp được trao cho Quốc hội, quyền hành pháp do Chính phủ nắm giữ và quyền tư pháp được Tòa án thực thi. Việc tổ chức hệ thống 3 cơ quan này nhằm thực hiện “kìm chế - đối trọng” lẫn nhau, từ đó giúp chế ước quyền lực. Mô hình này nhằm hạn chế sự lạm quyền của các chủ thể quyền lực. Hạn chế sự lạm quyền là một trong những yêu cầu của một nền chính trị dân chủ. Không chỉ vậy, quyền làm chủ của người dân cũng được thể hiện qua sự tác động đến việc “tổ chức” các cơ quan lập pháp - hành pháp - tư pháp. Người dân có được quyền tham gia vào hoạt động chính trị một cách tự do. Tổ chức bộ máy nhà nước rõ ràng đã đảm bảo cho nền chính trị dân chủ ở Nhật Bản, giúp hình thành một quốc gia phát triển và được xem là dân chủ hàng đầu khu vực Châu Á.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

1Chính phủ và Quốc hội là hai chủ thể thực hiện quyền lực trong lĩnh vực chính trị. Tòa án là cơ quan phụ trách trong lĩnh vực pháp luật.

2Tư cách ở đây được hiểu cơ bản là chức vụ nghị sĩ của thành viên Hạ viện.

3To-do-fu-ken là đơn vị hành chính cao nhất ở địa phương của Nhật Bản. Xét về cấp độ hành chính, To-do-fu-ken được xem như ngang cấp với cấp tỉnh ở Việt Nam. Tuy nhiên, về phân quyền hành chính và lập pháp thì có nhiều nét riêng biệt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

[1] Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (2020). Tóm lược Dân chủ. Trang Thông tin điện tử của Đại sứ quán và Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Việt Nam. Truy xuất từ https://vn.usembassy.gov/vi/ cập nhật 22/5/2020.

[2] David Held (2008). Models of Democracy. UK: Polity.

[3] Lê Thị Thu Mai. (2018). Những điểm tương đồng và khác biệt giữa Dân chủ xã hội chủ nghĩa và Dân chủ tư sản ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

[4] Ashibe Nobuyoshi (2004). Luật Hiến pháp, bản thứ ba, Tokyo: Iwanami Shoten, (Tạm dịch).

[5] Higuchi Youichi (2010). Luật Hiến pháp, bản thứ ba, Tokyo: Soubunsha, (Tạm dịch).

[6] Hirowatari Seigo (2010). Xã hội công dân và pháp luật. Tokyo: Houso Daigaku Kyouiku Shinkoudai, (Tạm dịch).

[7] Iwabuchi Miki (2007). Chính trị và Đa phương tiện. Tạp chí Nghiên cứu Giao tiếp và Đa phương tiện, 70, 5-15, (Tạm dịch).

[8] Katsua Aritsune, Mori Seiichi, Yamauchi Susumu (2012). Khái lược lịch sử pháp luật Tây dương. Tokyo: Mineruwa Shobo, (Tạm dịch).

[9] Ooishi Yutaku (2011). Dư luận Nhật Bản hiện đại và Chính trị truyền thông. Tạp chí Nghiên cứu pháp lý: Pháp luật, Chính trị, Xã hội. 84(6), 107-126, (Tạm dịch).

[10] Takahashi Kazuyuki (2010). Chủ nghĩa lập hiến và Luật Hiến pháp Nhật Bản. Nhật Bản: Yuhikaku, (Tạm dịch).

[11] Urabe Noriho, Ookubo Shirou, Mori Hideki(2002). Tập bài giảng Luật Hiến pháp hiện đại 1. Tokyo: Horitsu Bunka Sha, (Tạm dịch).

SEPARATION OF POWERS IN JAPAN

AND SOME VALUES OF DEMOCRACY

• LLM. PHAN TUAN LY

Faculty of Legal Foreign Languages, Ho Chi Minh City University of Law

ABSTRACT:

This paper address some issues of determining and presenting understanding of democracy (bourgeois), analysis of the structure of Japan’s separation of powers and drawing democratic values from the organization of the state apparatus.

Through the organization of power-seperating state apparatus, the citizen can participate in controlling the power of the legislative - executive - judicial agencies. Democracy in the organization of the state apparatus manifests itself through two contents: (1) state agencies suppress - counterbalance each other to control the exercise of power; and (2) people directly involved in controlling these agencies.

Keyword: Separation of powers, Japanese democracy, Japanese state apparatus.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 14, tháng 6 năm 2020]

Nguồn Tạp chí Công thương: http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/to-chuc-bo-may-tam-quyen-phan-lap-o-nhat-ban-va-mot-vai-gia-tri-ve-dan-chu-73392.htm