Tinh thần quốc dân

Những sự trùng hợp, dù hoàn toàn ngẫu nhiên, cũng dễ khiến sự liên tưởng bật ra so sánh.

Ngày 2-9-1945, tại Hà Nội, Hồ Chủ tịch đã đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hàng chục vạn quần chúng lao khổ đã ngẩng mặt kiêu hãnh đón nhận vị thế công dân một quốc gia độc lập vừa giành được từ tay đế quốc Nhật Bản.

Kể từ đó, dù còn phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh khác, trong óc và trên môi người Việt vẫn không bao giờ vắng bóng những từ ngẩng đầu, kiêu hãnh, tự hào…

Từ ngữ được lặp đi lặp lại hình thành nên một tâm thế, một tư duy bất biến, giàu tính lãng mạn anh hùng ca, giàu vẻ lấp lánh mơ ước, rất có lợi cho hứa hẹn, tuyên truyền nhưng pha không ít màu ảo tưởng hay chí ít cũng xa rời thực tế. Phần nào, cả dân tộc đã tự đặt mình vào quán tính lấy mục đích để mô tả thực tế.

Cũng ngày 2-9-1945, trên chiến hạm USS Missouri của Mỹ neo đậu trong vịnh Tokyo, tướng Umezu, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Nhật Hoàng, có Ngoại trưởng Shigemitsu và nhiều thành viên nội các khác đứng nghiêm trang phía sau, đã cúi thấp người ký văn kiện đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện.

Trước sự chứng kiến của hàng loạt tướng lĩnh Đồng Minh, gồm: Đô đốc Nimitz của Mỹ, Tướng Xu Yongchang của Quốc dân đảng Trung Quốc, Đô đốc Fraster của Anh, Trung tướng Derevyanko của Liên Xô, Trung tướng Blamey của Úc, Thiếu tướng de Hauteclocque của Pháp, Phó Nguyên soái Isitt của New Zealand và nhiều sĩ quan cao cấp của một số quốc gia Đồng Minh khác…, Thống tướng McArthur, Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ đã trịnh trọng đọc lời chấp thuận cho Nhật đầu hàng.

Kể từ hôm đó, từ vị thế một đế quốc hùng mạnh, làm mưa làm gió khắp Châu Á, nước Nhật đã phải khép mình sống lệ thuộc dưới chính sách hậu chiến McArthur. Đầu họ cúi thấp, lưng họ khom xuống, như dáng dấp của người đại diện, tướng Umezu, khi cúi xuống ký văn kiện đầu hàng, trong khi trước mặt ông là viên tướng 5 sao của phe chiến thắng đứng chắp tay sau lưng ngạo nghễ.

Nhưng trái tim họ vẫn trỗi lên những nhịp đập mạnh mẽ. Người Nhật chấp nhận vị thế chiến bại, nuốt trái đắng thua cuộc vào lòng để làm lại từ đầu. Và họ đứng dậy. Chỉ 15 năm sau, từ hoang tàn, đổ nát và kiệt quệ, họ đã vượt lên thành một quốc gia công nghiệp phát triển.

Miền Nam Việt Nam, nửa quốc gia chiến thắng, đã vui mừng, hồ hởi đón nhận những khoản viện trợ thay cho bồi thường chiến phí từ kẻ chiến bại năm nào. Nhà máy thủy điện Đa Nhim, Bệnh viện Chợ Rẫy, công trình Thủy lợi Kênh Nam, Kênh Bắc (thường gọi chung là mương Nhật) ở cả Bắc và Nam tỉnh Ninh Thuận… đều được Nhật giúp xây dựng từ thập niên 1960, đến nay vẫn phát huy tác dụng và không thể thay thế.

Bây giờ, sau 73 năm, Việt Nam huy hoàng vẫn là quốc gia nhận nhiều nhất Viện trợ không hoàn lại, Viện trợ phát triển từ Nhật Bản, quốc gia chiến bại có bầu trời u ám, con người cúi đầu trong ngày chúng ta đang ngẩng đầu mơ bầu trời sáng lạn.

Hãy nhìn nhận cho đúng, sòng phẳng và nghiêm túc. Khi nói về thực tế chậm phát triển, lạc hậu lâu dài của Việt Nam xin đừng đổ lỗi cho những cuộc chiến tranh, dù nó là sự thật lịch sử. Bởi lẽ, chiến tranh thật sự đã lùi xa đất nước chúng ta những 43 năm (1975-2018), gấp 3 lần khoảng thời gian Nhật Bản từ tro tàn thảm bại vươn mình thành một cường quốc kinh tế (1945-1960), và sau đó tiến như vũ bão.

Phải thừa nhận, cái khác cơ bản chính là cái khác tâm thế giữa con người hai dân tộc. Người Nhật biết nhún mình, cúi đầu để chìa tay cùng bè bạn, thậm chí cùng cựu thù ở bên ngoài, nhưng bên trong là niềm kiêu hãnh, tự tôn, là ý chí vượt lên chính mình trong những cố gắng khiêm tốn chưa bao giờ nguôi tắt. Còn người Việt, chúng ta quá quen kiêu hãnh ngẩng đầu với những chiến tích, để rồi lại tự kìm hãm ta vì mặc cảm bé nhỏ chăng?

Tôi sẽ không so sánh sự khác biệt trong ý thức hệ và cấu trúc chính trị của hai quốc gia để lấy đó làm nguyên nhân giải thích sự phát triển hay tụt hậu. Và nếu có, điều đó sẽ được phân tích trong một phản biện khác. Bởi lẽ, dù phát triển vượt bậc, trong nhiều thập niên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nền chính trị Nhật Bản vẫn đầy rẫy những biến động.

Cùng với Thái Lan, một quốc gia yên bình không bị cuốn vào bất kỳ cuộc chiến tranh nào trong thế kỷ XX, Nhật Bản là quốc gia châu Á thay đổi nội các nhiều nhất, luôn xoành xoạch. Thực trạng này chỉ thật sự lắng lại, ổn định hơn khi chạm ngõ thế kỷ XXI, nghĩa là kéo dài liên tục hơn 50 năm.

Đã có những thời điểm, nội các nước Nhật bị chi phối bởi cả chính sách hậu chiến McArthur lẫn sự thao túng của các tập đoàn tội phạm Yakuza. Nhưng ngay cả trong những giai đoạn đó, người Nhật công dân vẫn luôn nhìn về một hướng. Họ vẫn mạnh mẽ trong khiêm tốn để góp sức tái thiết và phát triển đất nước mình.

Cái người Nhật có, để phát triển, là tinh thần quốc dân trong mỗi công dân, được đặt trong tinh thần xã hội pháp trị từ thời Minh Trị. Tinh thần quốc dân được xây dựng và phát triển dựa trên niềm tin vào con người, sự tự trọng, tự giác, tinh thần ái quốc, ý thức trách nhiệm. Nó được bảo đảm và giáo dục để phát huy dựa trên nền tảng thượng tôn luật pháp.

Giáo dục tinh thần quốc dân trước hết là giáo dục và khơi dậy lòng tự trọng trong trách nhiệm của mỗi cá nhân, trong đời sống lao động và giao tiếp hàng ngày.

Thật buồn là chúng ta đã mất quá nhiều thời gian để hướng nền giáo dục tới những niềm tự hào mà bỏ qua sự cần thiết bắt buộc giáo dục lòng tự trọng và ý thức trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm công dân. Chúng ta lấy mục đích đẹp đẽ, hào nhoáng thay cho phương pháp kỷ luật, nề nếp cần phải có. Nhiều thế hệ người Việt đã trở nên ảo tưởng và kiêu ngạo.

Thiếu ý thức công dân và tinh thần quốc dân, từ một dân tộc kiên cường trong chiến tranh, chúng ta nhiều khả năng sẽ tự biến thành một dân tộc dễ tổn thương giữa thời bình.

Muốn thay đổi, không còn cách nào khác, chúng ta cần khiêm tốn và can đảm xác định lại: chúng ta chỉ mới ở ngay vạch xuất phát. Cái cần nhất phải là giáo dục ý thức thượng tôn luật pháp trong mỗi công dân, để từ đó khơi dậy và củng cố tinh thần quốc dân cho toàn xã hội.

Nguyễn Hồng Lam

Nguồn ANTG: http://antgct.cand.com.vn/nhan-dam/tinh-than-quoc-dan-511674/