Tính nhất quán xuyên suốt từ kinh Nguyên thủy đến kinh Đại thừa

Có thể khẳng định rằng Phật giáo mang tính nhất quán mà ngàynay các nhà trí thức đều công nhận rằng điều đó là đương nhiên và tất yếu, vì nêúPhật giáo cố chấp một pháp môn, hay một định kiến đều đưa Phật giáo đến tan rã.

Tu hành các pháp môn không giống nhau, nhưng thành Phật là một - Ảnh minh họa

Đó chính là kinh nghiệm hơn 2.000 năm truyền đạo của Phật giáo trên thế giới, cũng như kinh nghiệm của riêng tôi hơn 40 năm hoằng pháp và 26 năm làm Trưởng ban Hoằng pháp.

Từ Phật giáoNguyên thủy sang Phật giáo Đại thừa, ta coi là một, không phải khác. Và ngược lại,nhìn từ Đại thừa về Nguyên thủy cũng mang tính nhất quán. Nếu chúng ta chấppháp môn nào, thường cho rằng chỉ có pháp môn đó là pháp Phật và chống lại cácpháp môn khác, điều đó sẽ làm Phật giáo suy yếu. Lịch sử đã cho thấy bài học đắtgiá này.

Khi Phật tại thế, Ngài có mười đại đệ tử lãnh đạotheo hướng khác nhau, nghĩa là giáo lý Phật là một, nhưng mỗi người hiểu giáolý và ứng dụng khác nhau, tất nhiên mang lại kết quả khác nhau. Vì vậy, cácThánh La-hán chứng quả không đồng nhau,nên thuyết pháp, giáo hóa cũng không giống nhau. Tuy nhiên, còn Đức Phật hiện hữu,nên họ lấy Đức Phật làm trung tâm điểm, các La-hán thuyết pháp đều hướng về Đức Phật mà giảng dạy, bâýgiờ Phật giáo dễ dàng mang tính thống nhất.

Nhưng Đức Phậtdạy rằng sau khi Ngài vào Niết-bàn, Tăng Ni phải tập hợp để thường xuyên kiểmtra việc làm và suy nghĩ của mình đúng hay sai; nếu được đại chúng chấp nhậnhoàn toàn là đúng. Không được đại chúng chấp nhận là sai, phải sửa đổi. Vì lâýý kiến chung của đại chúng mà thi hành, nên có sự thống nhất trọn vẹn. Vì vậy,nếu ba lần Yết-ma phải có sự đồng ý hoàn toàn của tất cả mọi người. Giả sử có99 người đồng ý, chỉ một người không đồng ý, cũng phải trao đổi sao cho ngươìđó đồng ý. Điều này thể hiện tinh thần thống nhất gọi là Phật thừa.

Còn ý kiến riêng là Thanh văn thừa, Bồ-tát thừa.Nhất là Bồ-tát có đến 84.000 pháp môn, tức mỗi Bồ-tát có tâm nguyện và việc làmriêng, tạo thành kết quả khác nhau, nhưng cũng phải đưa đến thành Phật, khôngthành cái gì khác, thành cái khác là rơi vào tà đạo.

Thiết nghĩ ở thế kỷ XXI, chúng ta có cái nhìn tổngquát và thoáng hơn, khẳng định Phật giáo là đạo của trí tuệ và Đức Phật đạt đượcđỉnh cao của trí tuệ mới thành tựu quả vị Phật, hay giác ngộ viên mãn.

Nói về trí tuệ,nói rộng là trí tuệ từ con người nguyên thủy cho đến trí tuệ của con người thơìPhật tại thế và tiến lên đỉnh cao là trí tuệ của con người thời công nghệ 4.0.Thời nguyên thủy, người ta thấy như thế và thời Phật hiện hữu, người ta thâýkhác, cho đến tương lai chắc chắn thấy khác hơn nữa.

Nhìn xa hơn, môĩthời kỳ, mỗi quốc gia có tiến bộ, nên người ta có thể thấy khác, hiểu khác vaà́p dụng cách sống khác. Từ đó, pháp Phật được áp dụng tùy theo thời kỳ mà cókhác. Thứ hai là tùy hoàn cảnh của từng người có hiểu biết khác, nên việc áp dụngpháp tu cũng khác. Thứ ba là không gian khác, nên cái nhìn của con người cũngkhác và áp dụng vào cuộc sống cũng khác. Đó là lập trường căn bản của Phật dạynói lên sự thay đổi thiết yếu của việc ứng dụng pháp Phật trong cuộc sống conngười.

Sau Phật Niết-bàn,trong Phật giáo có thành phần tiến bộ hoạt động theo hướng phát triển, vì pháttriển là xu thế tất yếu của thời đại. Từ đó mới có Phật giáo phát triển khác vơíPhật giáo Nguyên thủy. Thí dụ loài người sơ khai chưa tìm được lửa, nên họ ăn sống,nhưng khi con người văn minh, tiến bộ, tìm được lửa, người ta đã biết nấu chínthức ăn và biết tìm hạt giống trồng tỉa v.v…

Phật giáo pháttriển cũng vậy, sau Phật nhập diệt 500 năm, từ Phật giáo Nguyên thủy tiến sangPhật giáo Đại thừa cũng căn cứ trên lời Phật dạy mà phát triển, không phải giữnguyên. Tuy nhiên, phát triển, nhưng không được khác với giáo lý căn bản. Vì vậy,Phật giáo phát triển, đổi mới để thích nghi, nhưng không ngoài nghĩa giải thoátcủa Đức Phật. Nếu phát triển làm lệch hướng giải thoát là rơi vào tà đạo. TăngNi phải thấy rõ ý này.

Từ Phật giáoNguyên thủy nhìn lên Phật giáo Đại thừa, rõ ràng là có hướng phát triển mà cănbản là Tứ Thánh đế. Căn cứ vào pháp tu Tứ Thánh đế giúp chúng ta từng bước đượcgiải thoát. Nói cụ thể, điều chứng được thứ nhất là không lệ thuộc xã hội,không lệ thuộc thiên nhiên. Tu sĩ, hay cư sĩ đều phải bớt lệ thuộc hai thứ này,vì lệ thuộc nhiều thì phát sinh phiền não, nghiệp chướng, trần lao, không đượcgiải thoát.

Và áp dụng ThiềnTứ niệm xứ, chứng quả Dự lưu đầu tiên thì có cái nhìn sáng suốt, thấy việc nênlàm, việc không nên làm. Tiến lên cao, đắc La-hán, đạt được Bát Chánh đạo thểhiện đời sống mẫu mực của người tu, là pháp căn bản của Phật giáo Nguyên thủy;nhưng Đức Phật không dừng lại ở điểm này. Thật vậy, sau khi giáo hóa năm anh emKiều Trần Như và 50 thanh niên dòng Da Xá đắc quả A-la-hán, Đức Phật bảo môĩngười đi một hướng để truyền đạo, nghĩa là phát tâm Bồ-đề, hành Bồ-tát đạo.

Chưa đắc La-hánmà truyền đạo thì dễ lệch hướng. Đắc La-hán mới tin mình được, vì đã có cáinhìn sáng suốt, mới không mắc sai lầm, biết rõ yêu ma mới có thể vào đời độsanh. Phật khuyên mỗi người đi một hướng là phát tâm Đại thừa độ sanh, không phảiđắc La-hán rồi vô Niết-bàn.

Mỗi người đi mộthướng để hành đạo Bồ-tát, nhưng trăm sông đều đổ về biển cả. Tu hành các phápmôn không giống nhau, nhưng thành Phật là một. Đó là kiến giải của Đại thừa,phá trần sa hoặc, nhìn thẳng vào nghiệp của chúng sanh và thấy nhân duyên độ đượcchúng sanh, chắc chắn giúp họ an vui, giải thoát.

Đắc La-hán, phảinghĩ đến độ người khác, là hướng đi lên từ Nguyên thủy sang Đại thừa. ĐắcLa-hán thấy chính xác, thấy người đáng độ, việc đáng nói, nhưng cũng phải thâýthêm điều đúng đắn này có nên nói hay không. Chưa nên nói, vì chưa phải lúc.Nói sớm không được, nói muộn cũng không được, phải nói đúng lúc và nói với ai.Đức Phật biết rõ nhân duyên của Ngài với người cần được Ngài độ, Ngài mới xuấthiện để giảng dạy. Phật chỉ độ được người có duyên, không phải gặp ai Ngài cũngnói. Phật cho biết Đức Di Lặc đủ điều kiện thành Phật, nhưng Ngài chưa ra đời,vì chưa phải lúc, là chưa có đúng đối tượng để Ngài giáo hóa.

Chúng ta là đệtử Phật cũng lấy trí tuệ làm gốc, tất yếu phải có cái nhìn theo Phật, là nhìn từNguyên thủy phát triển lên Đại thừa. Khi Phật giáo Đại thừa phát triển mạnh ởTrung Hoa, tông Thiên Thai và tông Hoa Nghiêm ra đời. Bấy giờ, chư Tăng lấy haibộ kinh Đại thừa quan trọng là Pháp hoaHoa nghiêm làm định hướngtu hành.

Tông Thiên Thai khởi đầu từ ngài Huệ Văn tiếp nhận Trungquán luận của Bồ-tát Long Thọ và ngài thực tập có kết quả, đưa ra kiến giảirằng Thanh văn thấy pháp khác, Bồ-tát thấy pháp khác và Phật thấy pháp khác, tứcthấy không đồng nhau, gọi là Tam thừa.

Thật vậy, Thanhvăn đã đoạn kiến hoặc, tư hoặc, đắc La-hán, nên thấy pháp khác với chúng sanhcòn kẹt kiến hoặc, tư hoặc. Thương thì thấy tốt, không thương thì thấy xấu, gọilà tư hoặc, tức thấy theo tình cảm. Thấy theo sách vở, học vấn là kiến hoặc thìngười học pháp này biết pháp này, không chấp nhận cái biết của người khác, nênluôn đối phó, cạnh tranh, không giải thoát và ở trong sinh tử luân hồi.

Trên bước đường tu, khi trì giới thanh tịnh, tâm tốt,Long thiên Bát bộ thường đến hộ trì, giúp chúng ta biết được một số việc. Và đượcnhư vậy, chúng ta nỗ lực tu sẽ được cái biết bằng trực giác. Đó là khi thực tậpthiền quán, tự nhiên tâm thanh tịnh khiến chúng ta biết đúng việc sẽ xảy ra.

Kinh Pháp hoa là kinh cao nhất trong hệ Đạithừa và kinh A-hàm tiêu biểu cho hệ Nguyên thủy, hay kinh Nikayatheo hệ thống Pali. Người Đại thừa đối chiếu kinh Đại thừa với Nguyên thủy quabốn bộ A-hàm. Và từ A-hàm, chúng ta tiến lên một bước, qua kinh Hoanghiêm, Bát-nhã, Pháp hoa. Và từ đỉnh cao Pháp hoa,nhìn xuống các kinh. Đó là con đường hai chiều xuyên suốt từ gốc lên cao và từcao đi ngược xuống cội nguồn. Nghĩa là từ Nguyên thủy phát triển lên Đại thưàvà từ kinh Đại thừa, chúng ta nhìn ngược lại kinh Nguyên thủy cũng nhận ra có sựthống nhất xuyên suốt.

Từ Đại thừa quay ngược lại Nguyên thủy là chúng tahành Bồ-tát đạo, học kinh Đại thừa, giảng kinh Đại thừa, sống theo tinh thần Đạithừa, nhưng phải luôn luôn đối chiếu với Nguyên thủy, tức không bỏ tạng kinhA-hàm, hay Nikaya. Chúng ta lấy kinh Nguyên thủy làm gốc, lấy kinh Đạithừa làm phương tiện giáo hóa. Vì chỉ giữ tạng kinh Nikaya thì rơi vô cục bộ,hay chỉ giữ kinh Đại thừa, không đối chiếu với Nikaya dễ bị sai lầm.

Đứng lập trườngPháp hoa nhìn Nguyên thủy bằng cách nào. Kinh Pháp hoa nói rằngtrước khi Phật nói kinh này, Phật nói kinh Vô lượng nghĩa. Theo tôi,kinh Vô lượng nghĩa là kinh Nguyên thủy, nghĩa là từ kinh Nguyên thủy,hành giả tìm thấy được nghĩa lý sâu hơn và triển khai những yếu nghĩa này, tậphợp thành kinh Vô lượng nghĩa.

Trước nhất, chúng ta học kinh văn tự và nếu chấpvào chữ nghĩa là phải như thế, thiết nghĩ không thể đúng được. Đương nhiên lâýkinh văn tự làm nền tảng là phần căn bản. Nhưng qua phần hai sâu hơn là nghĩalý sâu xa ẩn chứa bên trong cũng rất quan trọng theo tinh thần Đại thừa. Kinhvăn tự ai cũng đọc được, nhưng hiểu nghĩa lý sâu thì mỗi người hiểu khác nhau.

Vì vậy, kinh làmột, nhưng vì trình độ khác phải hiểu khác, nên gọi là Vô lượng nghĩa, tức cónhiều nghĩa khác nhau, nhưng trở về Nguyên thủy, dù nhiều nghĩa, cũng không nằmngoài ba nghĩa chính là đạo đức, trí tuệ và làm lợi ích cho cuộc đời. KinhNguyên thủy cũng như các bộ kinh Đại thừa đều dạy chúng ta thực hiện ba điêùchính yếu này.

Thật vậy, Phậtgiáo chỉ nhằm xây dựng mẫu người đạo đức trên nhân gian. Con người không đạo đứcthì không dùng được. Kinh Nguyên thủy đào tạo người tốt trong xã hội là Hiềnnhân và Thánh nhân. Phật dạy các Tỳ-kheo tuyệt đối không chống trái việc ngươìkhác khi tiếp xúc. Chúng ta không tranh cãi hơn thua, không trái với suy nghĩvà đời sống của người khác là đạo đức của Phật giáo.

Làm người tốt, làm Sa-môn tốt, làm Thánh Tăng trêncuộc đời là nền tảng đạo đức của kinh Pháp hoa. Không có đạo đức, đừngnói cái khác cho phí công. Đạo đức là giới, nhưng không nói như vậy, vì sợ ngươìta rơi vô chấp giới.

Nghĩa thứ hai của Vô lượng nghĩa là trí tuệ. Trítuệ là định và tuệ, vì định mới sanh tuệ. Và có tuệ để chúng ta thấy nhân duyênsanh các pháp. Các pháp vốn không thật, vì do nhân duyên mà sanh và theo nhânduyên mà diệt. Cho nên nhân duyên sanh, ta nói nó sanh. Nhân duyên diệt, ta nóinó diệt. Nói ngược lại là sai lầm lớn.

Nếu biết Phậtgiáo diệt mà cố làm cho nó sanh là mất mạng. Cho nên tôi thấy một số thầy ẩn tuchờ Phật Di Lặc ra đời, vì xuất hiện sẽ thọ nạn. Nhưng nhân duyên sanh mà khônglàm đạo, chúng ta đánh mất cơ hội. Thực tế cho thấy sau ngày giải phóng đất nước,tất cả sinh hoạt bị hạn chế, nếu ra thuyết pháp e rằng khó sống. Nhưng ngàynay, Nhà nước công nhận tôn giáo, nhất là Phật giáo, mà chúng ta không làm là bỏmất cơ hội tốt.

Đức Phật khẳngđịnh thấy pháp sanh diệt là người đã chứng Vô sanh, nên tùy theo sanh diệt màxuất hiện trên cuộc đời để giáo hóa độ sanh, không phải lúc nào ta cũng làm được.

Việc thứ batrong kinh Vô lượng nghĩa là làm lợi ích cho chúng sanh. Kinh Nguyên thuỷcũng vậy, Phật dạy mỗi người đắc Thánh quả phải đem hiểu biết, tu chứng dạy người,đừng bỏn xẻn, ích kỷ. Vì có người học được, nhưng không muốn làm. Tôi giảng dạyTăng Ni là tôi đã trả ơn Phật, ơn thầy Tổ. Không làm như vậy, tôi thiếu nợ đànna thí chủ, thiếu nợ Phật, nợ thầy Tổ. Làm là báo ơn, nói rõ là làm lợi ích cuộcđời. Kinh Nguyên thủy cũng ghi rõ ý này.

Vì vậy, đọckinh Vô lượng nghĩa, lấy ba ý chính là đạo đức, trí tuệ và làm lợi íchcho đời, ghi nhớ ba ý này đem vô tâm mình. Từ ba ý này sanh ra muôn ngàn ý khácđể ứng dụng, kinh Đại thừa thường nói là lấy bất biến ứng vạn biến. Thiên biếnvạn hóa cũng từ cốt lõi ba điều này. Đó là ý nghĩa từ kinh Pháp hoa nhìnngược về kinh Nguyên thủy có một sự xuyên suốt.

Giáo pháp Phật từ kinh Nguyên thủy phát triển nghĩalý sâu xa thành kinh Đại thừa và được truyền sang Tây Tạng, Ngài Liên Hoa Sanhdựng thành một câu là Om Mani Padme Hum, tức hoa sen chứa một viên ngọc.Nói cách khác, giáo lý Phật, hay một đời giáo hóa độ sanh của Đức Phật trong 45năm, hay 49 năm thể hiện trong kinhNikaya và kinh Pháp hoa, nóilên đạo hạnh thánh thiện và trí tuệ siêu tuyệt của Đức Phật, kết tinh thành mộtviên ngọc sáng trong hoa sen.

Phật giáo Đạithừa nhìn về Phật giáo Nguyên thủy, lấy kinh Pháp hoa làm chuẩn, vì kinhPháp hoa thể hiện được tính cách cao nhất trong tinh thần nhất quán.Trong khi các kinh khác chuyên Đại thừa, hay thuần Đại thừa thì dễ rơi vô cựcđoan.

Sau 49 năm Phậtthuyết pháp xong, Ngài Niết-bàn, không nói nữa. Người người mới ôn lại lời Phậtdạy, hình thành các kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa, Kim Cang thừa. Mỗi ngươìsuy nghĩ một cách và diễn tả khác nhau, để tìm an lạc cho mình và mang an lạccho người.

Kinh Nguyên thuỷnói rằng những gì Phật cần nói, Ngài đã nói, cho nên kinh Nguyên thủy chỉ suynghĩ và căn cứ vào những gì Phật đã nói.

Trong khi kinh Đại thừa diễn tả là nương ánh quangPhật, tức nương trí tuệ Phật, nghĩa là kinh Đại thừa suy nghiệm về tu chứng củaPhật, về những gì Phật chưa nói, để có được cái thấy chính xác rằng chúng sanhnghĩ gì, cần gì, có khả năng gì mà theo đó đáp ứng, thể hiện yếu nghĩa tuỳduyên. Điều này xác minh rằng hành giả Đại thừa đã triển khai từ kinh Nguyên thuỷnhững yếu nghĩa cốt lõi mà Phật muốn nói qua cánh cửa Vô lượng nghĩa đi vào bộkinh cao tột là kinh Pháp hoa.

Tóm lại, tiến tu theo lộtrình Phật dạy đúng như pháp, mở ra cho chúng ta tầm nhìn xuyên suốt từ Phậtgiáo Nguyên thủy sang Phật giáo Đại thừa và từ Đại thừa nhìn ngược lại Nguyênthủy cũng nhận thấy có sự thống nhất hoàn hảo. Đó chính là nền tảng kiên cố, bấthoại giúp cho mạng mạch Phật giáo trường tồn trải qua hơn 25 thế kỷ, mãi là ngọnđuốc soi đường cho nhân loại xây dựng cuộc sống an lạc, hiểu biết, phát triển,thương yêu, hòa hợp, hòa bình.

HT.Thích Trí Quảng

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/triethoc/2019/07/24/7ff68a/