Thủy hải chiến Việt Nam (Kỳ 3)

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc Truyện lịch sử "Thủy hải chiến Việt Nam" của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Thanh Niên, Hà Nội ấn hành năm 2016.

Ảnh minh họa: Vị tướng tài ba Yết Kiêu là một trong 5 mãnh tướng của Trần Hưng Đạo. Với tài bơi lội thần kỳ, ông đã lập nhiều công lao lớn, được vua ban danh hiệu “Trần triều đệ nhất đô soái thủy quân”. Nguồn: Internet

II. YẾT KIÊU THỦY CHIẾN.

Yết Kiêu nói:

-Huynh quá chén rồi. Đừng đùa nữa, đệ có tài cán gì đâu.

Dã Tượng nghiêm nét mặt:

-Việc đại sự đâu dám đùa. Hôm nay huynh về đây là vâng lệnh của Hưng Đạo Vương. Đệ hãy thu xếp để cùng đi cho sớm. Nhưng đệ đã rèn luyện thế nào mà có tài như vậy.

Yết Kiêu kể bằng một giọng hơi buồn khi chàng nói về gia cảnh:

-Thực ra tên đệ là Phạm Hữu Thế, cha đệ là Phạm Hữu Hiệu làm nghề chài lưới, mẹ là Vũ Thị Duyên, khi đệ vừa ra đời thì cha đã mất. Hai mẹ con sống trong cảnh nghèo nàn. Thân mẫu phải làm nghè bán nước kiếm ăn. Thương mẹ nên ngay từ nhỏ đệ đã làm việc cật lực để mong đỡ đần cho mẹ. Cuộc đời của đệ do đó gắn liền với dòng sông Quát, dòng sông của quê hương, đệ quyết bơi lặn thật giỏi để bắt được nhiều cá bán kiếm tiền giúp mẹ. Do rèn luyện và chịu đựng gian khổ và cuối cùng đệ đã bơi được rất dài, lặn được khoảng nửa ngày dưới nước. Đệ bắt cá không cần cần câu mà chỉ lặn xuống đáy sông mà bắt. Nhưng thực ra cũng chưa xứng đáng với cái tên mà người ta đặt cho đệ Yết Kiêu.

Dã Tượng hỏi:

-Yết Kiêu là biệt danh gì vậy?

Một anh bạn của Yết Kiêu trả lời:

- Thưa tướng quân, đó là một loài cá dũng mãnh ở biển Đông ạ.

Yết Kiêu kể tiếp:

- Sức bơi và lặn của đệ càng dẻo dai gần như không biết mệt khi một đêm đệ mơ thấy có hai con trâu trắng đánh nhau. Đệ đã xông vào dùng tay gạt hai con ra. Hai con trâu hoảng sợ chạy xuống dòng sông và biến mất. Tỉnh giấc đệ mới biết là giấc mơ. Nhưng kỳ lạ những sợi lông trâu trắng vẫn dính ở bàn tay, đệ liền cho vào mồm và nuốt. Từ đó thật là kỳ lạ, đệ bơi lặn cả ngày dưới nước không biết mệt, càng lặn càng khỏe ra như một con cá thực thụ. Đệ cũng có thể đi trên nước như đi trên đất mà không bị chìm. Mấy cụ đồ làng đệ gọi đệ là người ”Nhập thủy như phúc bình địa hỉ" (đi trên nước ung dung như đi trên đất bằng). Nhưng khả năng bơi lặn của đệ cũng chỉ để bắt cá kiếm ăn, có giúp gì được cho Quốc công Tiết Chế?

Dã Tượng ngạc nhiên gật gù:

-Kỳ lạ thật nhưng có lẽ trời phái đệ xuống để nay mai thủy chiến tiêu diệt quân xâm lược trên sông nước. Quốc công Tiết chế thật là người nhìn xa trông rộng. Nay mai cuộc xâm lăng của quân Thát vào Đại Việt ta ngoài bộ binh và kỵ binh còn có cả thủy binh thì tài của đệ sẽ được dùng giúp vào công cuộc cứu nước.

-Dùng vào việc gì ạ?

-Đệ sẽ huấn luyện thủy quân. Đệ sẽ lặn xuống nước đục thuyền giặc cho chìm xuống sông.

Yết Kiêu và đám thanh niên làng reo lên:

-Đúng rồi, đục thuyền giặc và dìm chúng xuống nước, ha, ha ha..!

Yết Kiêu phân vân:

-Nhưng đệ còn mẹ già không ai chăm sóc.

Dã Tượng nói:

-Quốc công Tiết Chế dùng người rất ân cần chu đáo. Mẹ già của đệ sẽ được chu cấp đầy đủ.

- Nhưng đệ cũng phải gặp và hỏi ý kiến mẫu thân.

Dã Tượng gật đầu:

-Tất nhiên. Bây giờ chúng ta đi gặp mẫu thân của đệ.

Dã Tượng thanh toán tiền cho chủ quán rồi cùng mọi người ra quán nước của mẫu thân Yết Kiêu ở lộ Hải Đường. Sau khi nghe kể hết chuyện, mẫu thân nắm tay Dã Tượng rơm rớm nước mắt:

-Lạy trời phật, nhà tôi phúc to lớn nên thằng Thế mới được vào hầu cho Đại Vương, cống hiến sức trai cho đất nước. Nhờ Dã Tướng quân giúp đỡ cho em Thế nha.

Dã Tượng chắp tay cúi đầu cung kính:

-Dạ con xin ghi nhớ lời dạy của mẫu thân.

Dã Tượng cùng Yết Kiêu bái biệt mẹ già, từ giã đám bạn bè nông thôn lên ngựa thẳng đường về Vạn Kiếp. Bụi mờ tung trắng đường làng Hạ Bì trong một trưa đầy nắng gió. Yết Kiêu nhìn lại làng xóm một màu xanh thân yêu. Dòng sông Quát chói chang nắng hè, quán nước của mẹ già liêu xiêu trong gió, mắt chàng bỗng nhiên trào lệ mặn mặn cay cay. Dã Tượng nói:

-Đi thôi Phạm đệ. Quốc công Tiết chế đang đợi chúng ta.

Yết Kiêu giật mình như đang tỉnh giấc mộng. Chàng thấy mình không phải đang cởi trần đóng khố mà đang mang quân phục mang gia huy nhà Hưng Đạo Vương. Chàng cùng Dã Tượng và những quân nhân thúc ngựa đi nhanh trong đường làng đầy nắng gió.

2. Thế là Yết Kiêu đã ở điền trang thái ấp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nhưng chưa được gặp Đại Vương. Dã Tượng khuyên Yết Kiêu không nên nôn nóng vì Hưng Đạo Vương còn bận công việc triều chính ở Thăng Long. Cũng theo lời Dã Tượng thì trước khi sử dụng hiền tài Hưng Đạo Đại Vương bao giờ cũng cho người đó thử thách, bộc lộ tài năng do chính Hưng Đạo Đại Vương làm chủ khảo.

Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương) điền trang thái ấp của Hưng Đạo Vương cũng là Tổng hành dinh của Quốc công Tiết chế, là đất triều đình phong cho Hưng Đạo Vương, là căn cứ tích trữ lương thực, huấn luyện quân đội. Vạn Kiếp là một căn cứ quan trọng có thể chặn giặc Nguyên Mông từ miền Đông Bắc và từ miền Ải Nam Quan tràn xuống, bảo vệ kinh thành Thăng Long. Vạn Kiếp là nơi núi non trùng điệp xen kẽ những cánh đồng phì nhiêu. Phía bắc, phía tây và phía đông gắn với Lục Đầu Giang, nơi giao nhau của 6 con sông lớn. Từ Lục Đầu Giang có thể tỏa ra kiểm soát khắp miền Lạng Giang, phía đông bắc và Đông Thăng Long.

Yết Kiêu cảm thấy nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ thôn Hạ Bì và dòng sông Quát thân yêu. Phần lớn thời gian chàng đi ngắm phong cảnh Vạn Kiếp, trò chuyện với Dã Tượng. Dã Tượng nói cho chàng hiểu biết nhiều về cuộc sống trong trại quân, đặc biệt là công việc làm tùy tướng bảo vệ cho Đại Vương. Yết Kiêu thầm cảm tạ anh chàng ”thần voi” này quả là một người tốt bụng. Phần lớn thời gian Yết Kiêu suy nghĩ về cuộc thử tài sắp tới trước sự chứng kiến của Hưng Đạo Đại Vương.

Thế rồi trong một bữa cơm chiều Dã Tượng nói cho Yết Kiêu biết Hưng Đạo Vương đã về, rằng ngày mai Yết Kiêu phải biểu diễn tài năng cho Hưng Đạo Vương xem tại thao trường Vạn Kiếp.

Đêm đó Yết Kiêu không ngủ được nhiều, chàng nửa tỉnh nửa mơ. Gà vừa gáy sáng Dã Tượng đã đến đưa Yết Kiêu xuống bếp ăn sáng rồi hai người phi ngựa ra thao trường Vạn Kiếp.

Trên một bãi rộng mênh mông, không biết cơ man nào là binh sĩ xếp thành đội ngũ vuông vắn uy nghi, gươm giáo sáng lòa, tinh kỳ bay trên đầu phấp phới. Trên dòng Lục Đầu Giang, chiến thuyền đậu san sát, cờ hình vuông và trên nền mỗi lá cờ những hình vuông đỏ, xanh, đen trắng, vàng xen nhau tung bay soi bóng xuống dòng sông xao động. Mặt trời đang mọc rực rỡ phía trời đông, tỏa ánh bình minh đỏ rực xuống thao trường. Những ngọn núi xanh, những dòng sông của Lục Đầu Giang như oai phong hơn khi thao trường tràn ngập binh lính, dòng sông tràn ngập chiến thuyền.

Yết Kiêu còn đang ngơ ngác ngắm nhìn bộ binh rồi lại nhìn chiến thuyền, chàng bỗng nhiên thấy hào khí dạt dào. Chàng nghĩ quân ta hùng mạnh thế này thì sợ gì giặc Thát Đát. Còn đang suy nghĩ miên man thì Dã Tượng dắt Yết Kiêu vào một cái trại lớn được căng lên bởi tấm phông màu đỏ rất rộng. Trên đỉnh trại một lá cờ màu đỏ có chữ soái màu vàng tung bay theo gió. Hai bên đường vào trại, lính mặc quân phục, đội nón dấu màu nâu gươm giáo sáng lòa. Dã Tượng nói đây là Tổng hành dinh của Hưng Đạo Vương. Yết Kiêu hơi hồi hộp khi biết rằng sắp được gặp con người tiếng tăm lừng lẫy, tài năng đức độ, là một trong những trụ cột của quốc gia, của vương triều Trần, của quân đội. Khi vào trong trại, Yết Kiêu trông thấy một người ngồi ghế chủ soái sau một chiếc án thư gỗ màu nâu. Người đó oai phong lẫm liệt, khuôn mặt vuông vức hồng hào, nghiêm nghị, đầu đội mũ đâu mâu màu vàng, mình khoác nhung phục màu tía, giáp trụ cũng màu vàng. Đằng sau trên bức bình phong có chiếc phông màu đỏ với một chữ soái màu vàng. Dưới chữ soài là hình một con hổ to lớn oai phong dữ tợn. Đứng bên tả là những võ quan sáng rực nhung phục giáp trụ như Phạm Ngũ Lão, Cao Mang, Nguyễn Địa Lô... bên hữu là những mưu sĩ nổi tiếng văn chương và tài năng chính trị như Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực... Dã Tượng vội kéo Yết Kiêu quì xuống. Dã Tượng khoanh tay trước hổ trướng:

-Dạ bẩm Hưng Đạo Vương, tiểu tướng vâng lệnh về Hạ Bì đã đón được Phạm Hữu Thế- Yết Kiêu, hôm nay tiểu tướng dẫn Yết Kiêu đến trình diện Quốc Công.

Đoạn Dã Tượng quay lại nói nhỏ với yết Kiêu:

-Chào Hưng Đạo Vương đi.

Yết Kiêu vòng tay khấu đầu:

-Dạ nô tì Yết Kiêu Phạm Hữu Thế kính lạy Đại Vương.

Hưng Đạo Vương và tả hữu trong Hổ trướng nhìn người thanh niên vừa xưng là Yết Kiêu, một người nổi tiếng bơi lặn mà họ từng được nghe. Đó là một thanh niên cao lớn khỏe mạnh, có vẻ phi thường không kém Dã Tượng, lại còn trắng trẻo tuấn tú. Hưng Đạo Vương nói:

-Dáng mạo quả nhiên phi thường nhưng còn xem tài cán nhà ngươi có đúng như lời người xứ Đông đồn đại hay không thì sẽ bổ dụng. Trước tiên là thử thách sức khỏe. Hiện nay có một gia nô của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc có biệt danh là Đô Trâu không ai địch được, ngươi có dám đấu vật với người đó không?

-Dạ, nô tì xin vâng lời dạy của Đại Vương.

Hưng Đạo Vương nói:

-Tốt, chúng ta ra sới vật ở thao trường.

Hưng Đạo Vương rời ghế bước ra khỏi hổ trướng. Tả hữu và phụ tá lần lượt theo sau. Dã Tượng dẫn Yết Kiêu đi sau cùng đến sới vật phía Bắc thao trường, nơi có tiếng trống thúc vang dồn dập làm nức lòng người. Quân sĩ đứng vòng trong vòng ngoài kín đặc sân vật. Trên khán đài, một người lính mặc quân phục màu nâu, đầu đội nón dấu, hai tay nâng một cái loa khổng lồ oang oang thông báo:

-Quốc công Đại Vương đến.

Tiếng trống im bặt. Binh lính cung kính rẽ lối cho Hưng Đạo Vương đi lại khán đài. Sau khi an tọa cùng Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, Hưng Đạo Vương ra lệnh:

-Cho cuộc thi tài tiếp tục!

Trống lại thúc vang lên dồn dập. Yết Kiêu nhìn vào trong sân, một đô vật mặc khố đỏ cao to sừng sững, hai chân như chân voi, hai cánh tay như hai vòi voi, ngực nở da nâu bóng, bắp chân bắp tay cuồn cuộn, khuôn mặt nom dữ dằn. Dã Tượng nói cho Yết Kiêu:

-Đó chính là Đô Trâu, gia nô của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, có sức vật phi thường hầu như khắp xứ Đông này không ai địch nổi. Những người chiến bại dưới tay hắn đều bị tung lên trời rơi xuống không chết thì cũng què, tàn phế.

Trên sân vật ngoài Đô Trâu, Yết Kiêu còn thấy một người đứng tuổi mặc áo dài màu nâu, buộc khăn đỏ ở lưng, đầu cũng chít khăn đỏ. Đó chính là trọng tài, người điều khiển cuộc đấu của hai người. Trên khán đài tiếng loa lại vang lên:

-Đô Kinh Bắc đã nhận lời giao đấu với Đô Trâu, xin mời đô Kinh Bắc ra để cuộc đấu bắt đầu.

Một người được gọi là đô Kinh Bắc bước ra. Đô Kinh Bắc vận khố nâu, thân hình cao lớn lực lưỡng khỏe mạnh, chắc cũng là đô vật anh chị ở vùng sông Thương, sông Cầu. Trống thúc vang lừng. Đô Kinh Bắc đi một bài múa mạnh mẽ đẹp mắt. Đô Trâu cũng đi một bài múa đầy kiêu ngạo. Rồi nhanh chóng cả hai đô xáp vào nhau, tay ghì tay, bốn chân chùng xuống thủ thế. Chưa dứt vài hồi trống bằng một miếng vật gia truyền bí hiểm nhanh đến mức người xem chưa nhìn rõ thì Đô Trâu đã nâng bổng đô Kinh Bắc lên hai tay và nhanh chóng tung lên trời như người tung quả bóng. Đô Kinh Bắc gồng mình lộn một vòng trên không trung và rơi xuống bằng sức đỡ của hai chân hai tay mới không thiệt mạng nhưng đô này đã chiến bại và trọng thương. Tám người lính đem cáng vào và khênh đô Kinh Bắc ra khỏi sới vật. Sự việc diễn ra quá nhanh khiến mọi người kinh hoàng. Trên khán đài Yết Kiêu trông thấy Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đang cười một cách thỏa mãn,nở nang mày mặt, còn Đô Trâu đứng giữa sân vật với một sự thách thức kiêu ngạo hơn bao giờ hết. Cả đấu trường im lặng. Tiếng loa lại vang lên:

-Còn đấu sĩ nào ra đấu với Đô Trâu không?Nếu không Đô Trâu sẽ là đệ nhất vô địch giải đấu năm nay.

(Còn nữa)

CVL

PGS TS Cao Văn Liên

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/thuy-hai-chien-viet-nam-ky-3-80883