Thủy hải chiến Việt Nam (Kỳ 28)

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc Truyện lịch sử 'Thủy hải chiến Việt Nam' của PGS TS Cao Văn Liên do NXB Thanh Niên, Hà Nội ấn hành năm 2016.

Kỳ 28.

11. CỨU TÀU MẮC CẠN

Sau chuyến đi nhận tàu ở trạm Giang, tôi lại về tàu cũ, chiếc tàu cũ kĩ, bé nhỏ trong số các tàu của Hải đoàn. Trong khi các tàu do Trung Quốc trang bị to, đẹp, tốc bộ bốn - năm mươi hải lí giờ cần lái bằng điện thì tàu của tôi vẫn kéo lái bằng vô lăng nặng vẹo sườn, dây xích kêu loảng xoảng, tốc độ mười hai hải lí/giờ, trọng tải chỉ hai trăm tấn. Ấy vậy mà nhiệm vụ nó cáng đáng không kém các tàu khác. Với thân hình đen sì, mốc thếch, nhỏ bé, tàu mang số hiệu 655 vẫn vòng xuống vùng biển tây nam Thái Bình Dương và đưa vào miền Nam Việt Nam nhiều nghìn tấn đạn dược, quân trang, quân dụng, lương thực, thuốc men cho quân giải phóng. Số hải lí mà 655 hành trình không thể nào tính được.

Sau hiệp định Pa-ri năm 1973, tàu chúng tôi và một tàu bạn đi vào Cửa Việt. Xuất phát từ quân cảng Hải Phòng, qua hai ngày đêm hành trình, bốn giờ sáng hôm sau tàu chúng tôi vào đến Cửa Việt và thả neo trên dòng sông Thạch Hãn. Đây là vùng giáp ranh, phía bờ nam sáu kilômét vẫn là vùng quân ngụy Sài Gòn chiếm đóng. Tàu chúng tôi thả neo được một giờ rồi mà chiếc tàu bạn vẫn không thấy tới. Chúng tôi đang sốt ruột thì nhận được điện báo tàu này đi nhầm đường, đã mắc cạn ở doi cát phía nam bờ Cửa Việt.

Trời cũng vừa sáng, chúng tôi hạ xuồng cao su bơi về bờ nam Thạch Hãn rồi lên bờ đi bộ ra biển, nơi con tàu mắc cạn. Bây giờ toàn bộ phong cảnh sông nước một miền Quảng Trị nổi tiếng trải dài trước mắt tôi, hai bên bờ sông, miền Gio Linh, Do Hải, Triệu Phong nhà cửa thưa thớt, cây cối xác xơ, tiêu điều do bom đạn tàn phá. Chúng tôi đặt chân qua quân cảng Cửa Việt của Mĩ -Ngụy. Đây là một quân cảng lớn, quan trọng của hải quân Mĩ – ngụy Sài Gòn, rất hiện đại nhưng đã bị chúng ném bom phá hủy hoàn toàn khi rút chạy. Trước mắt chúng tôi chỉ còn lại những bức tường đổ nát, mặt đất ngổn ngang mảng bê tông, sắt thép, đầu vỏ đạn. Bàn chân chúng tôi không đặt trên cát mà dẫm lên sắt thép, đạn dược để đi,. Những cầu cảng bị đứt đoạn, chúi một đầu xuống sông, những chiếc ô tô, xe jép của sĩ quan Ngụy cháy nham nhở, méo mó, những bao ni lông đựng cát làm công sự phòng thủ vương vãi, rách rưới. Tôi cúi xuống vốc một nắm đạn tiểu liên cực nhanh AR.15 của Mĩ. Những viên đạn to bằng đầu đũa, vàng chóe trong tay tôi. Tôi ngắm nhìn một lát rồi ném xuống sông. Chúng tôi đã nom thấy con tàu mắc cạn.

Đó là bãi biển phía nam Cửa Việt, nơi tiếp giáp giữa dòng Thạch Hãn và biển. Nơi đây, mới cách một tháng quân ngụy Sài Gòn đã dùng tàu há mồm đổ hàng sư đoàn lính với hàng chục xe tăng hòng lấn chiếm Cửa Việt. Ta đã dùng pháo cực mạnh bắn dữ dội và tiêu diệt toàn bộ quân lấn chiếm, nghiền nát chúng thành những mảnh vụn. Bây giờ trước mắt chúng tôi, khắp bãi biển ngập đầy sắt, thép, đạn dược. Bãi chiến trường khét lẹt, ngổn ngang. Hai chiếc xe tăng của Ngụy còn nguyên hình nhưng không thể chuyển động được, đứng phơi xác đen ngòm dưới nắng gió, cát bụi.

Sóng ào ạt từng đợt, gió vi vút. Tôi đứng lặng nhìn bãi chiến trường ảm đạm, nơi mồ chôn khủng khiếp một bộ phận quân ngụy Sài Gòn đã dám chà đạp hiệp định Pa-ri. Sự trừng phạt dành cho những kẻ phản bội bao giờ cũng chứa đầy sấm sét.

Đây là con tàu mắc cạn. Con tàu này chúng tôi mới nhận từ Trạm Giang, nước sơn màu xanh nhạt của nó còn bóng loáng. Bây giờ thì toàn bộ thân hình nặng nề của nó đã nằm sâu trong cát. Cát vùi cả chân vịt và bánh lái. Nó đã hoàn toàn bất lực như con cá voi khổng lồ mắc cạn. Dưới bụng nó, sóng biển nông choèn ùa từng đợt đùa dỡn.

Người du kích địa phương nói rằng ở doi cát này, trước đây một tàu lớn của Mĩ cũng mắc cạn. Mĩ đã dùng đến cả trực thăng cẩu mà đành bó tay, cuối cùng phải dùng máy bay ném bom để tiêu hủy con tàu.

Bộ Tư lệnh Hải quân và Hải đoàn cảm tử bị đặt trước một thử thách lớn. Tiêu hủy con tàu là một biện pháp không thể chấp nhận. Cấp trên lệnh cho chúng tôi phải cứu con tàu bằng bất cứ giá nào. Người ta bắt đàu suy nghĩ, tính toán các phương án tối ưu, cuối cùng quyết định dùng tàu kéo con tàu ra.

Ngay sau đó những tàu kéo có sức mạnh nhất quốc gia được điều động vào biển Cửa Việt.

Chúng tôi bắt đầu làm việc cật lực suốt ngày đêm. Trước tiên, phải giải phóng hàng hóa khỏi con tàu để giảm trọng lượng của nó. Con tàu này chở bốn trăm tấn đường. Những bao đường năm mươi kilôgam được bọc kĩ càng trong những túi vải nhựa và được quăng xuống biển, sẽ tính chuyện vớt sau. Một vệt ven biển tít tắp từ Cửa Việt vào Nam, hàng trăm bao ni lông đường nổi lềnh bềnh theo sóng dập dờn dày đặc. Ba ngày bốc vác cật lực, chúng tôi ném hết số đường ở các khoang con tàu xuống biển. Con tàu chỉ còn cái xác rỗng không. Chiến dịch kéo bắt đầu.

Chúng tôi luân phiên nhau bơi từ hai tàu kéo từ xa, tải cáp cột vào các cọc sắt của tàu. Việc bơi trên sóng gió tải cáp là cực kì nặng nhọc bởi sóng to gió lớn, bởi gió mùa đông bắc vù vù, nước lạnh thấu xương. Cột cáp vào tàu xong, chúng tôi trở về tàu kéo. Tàu kéo bắt đầu rồ máy kéo hết lực. Những sợi cáp to bằng cùi tay, căng như dây đàn. Ngày thứ nhất tàu mắc cạn không nhúc nhích, những sợi cáp đứt tung quật ngược trở lại bay vun vút trên đầu, có thể đánh nát nhừ chúng tôi trong chớp mắt. Chúng tôi lại lặn, lại bơi dưới biển, tải dây cáp vào nối lại để kéo tàu. Đây là một cuộc vật lộn thực sự khốc liệt giữa các thủy thủ với sóng gió dữ dội ở Cửa Việt. Bảy ngày sau, công việc đã có kết quả. Con tàu bắt đầu nhúc nhích từng chút một. Tám ngày sau nữa, nó được giải phóng, như con cá khổng lồ được trở về với nước, máy móc hoạt động làm thân nó rung lên, chân vịt xé nước và con tàu lướt đi trên sóng. Chúng tôi vui mừng khôn xiết.

Căn đúng con đường và đi chính xác, đó là bài học nhớ đời cho các vị thuyền trưởng khi chỉ huy con tàu hành trình trên biển.

12. GIẤC NGỦ CHẾT NGƯỜI

Cứu được tàu mắc cạn, nhưng ngay sau đó Hải đoàn chúng tôi bị một tổn thất quá đau lòng.

Hải đoàn chúng tôi có thêm một chiếc tàu há mồm, nó dài và vuông như con cá sấu khồng lồ. Mỗi khi vào căn cứ, nó không cần lại cầu cảng mà chỉ lại gần bờ, há chiếc hàm dưới của nó xuống làm cầu nối với bãi sông, bãi biển, miệng nó há hoác và lính tráng đi lên đi xuống như chui vào bụng cá.

Cuối năm 1973, tàu há mồm chứa đầy chất nổ, vũ khí đạn dược hành trình vào Cửa Việt. Nó đã ra đi và không bao giờ trở lại. Đêm thứ hai của cuộc hành trình, cả tàu ngủ say do mệt mỏi, chỉ còn lại một người lính trẻ lái tàu. Khi đến vùng biển giáp ranh, đáng lẽ vào Cửa Việt thì người lính trẻ không thuộc địa hình cứ cho tàu chạy thẳng. Tàu đi vào vùng biển của địch. Khi thuyền trưởng thức dậy, phát hiện ra sự sai lầm cực kì nguy hiểm, ông lệnh cho tàu quay mũi chạy ra. Nhưng đã quá muộn. Tàu há mồm đã lọt vào màn ảnh rađa theo dõi của quân ngụy Sài Gòn. Lúc đầu chúng còn khả nghi theo dõi con tàu lạ, nhưng khi tàu đổi hướng quay ra, chúng hạ lệnh dùng máy bay tấn công ngay lập tức. Một máy bay phản lực ngụy bay tới phóng rocket xuống tàu. Phát rocket làm cho bốn trăm tấn thuốc nổ, đạn dược nổ tung, xé con tàu và các chiến sĩ thành mảnh vụn vùi dưới đáy biển.

Ngày hi sinh của đồng đội ở tàu há mồm, chúng tôi trên các boong tàu ngả mũ mặc niệm. Từ nơi xa lắc của không gian và mai này xa lắc thời gian, chúng tôi luôn nhớ họ. Họ đã trở thành bất tử đối với Tổ quốc và đối với chúng tôi.

(Còn nữa)

CVL

PGS TS Cao Văn Liên

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/thuy-hai-chien-viet-nam-ky-28-81420