Thượng tá Hoàng Việt Hưng: Hồi quang sau chiến bào

Ai từng lên Thái Nguyên, vào thăm Bảo tàng Văn hóa các dân tộc, sẽ thấy bức ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh lên thăm Bảo tàng. Ngay phía sau Bác, một người đàn ông trung niên đang thuyết minh, giới thiệu. Đó là ông Hoàng Việt Hưng, Chủ nhiệm Bảo tàng Việt Bắc (tên gọi khi đó).

Việt Hưng đây!

Lúc này, Thượng tá Hoàng Việt Hưng đã rũ chiến bào. Ông xếp gọn bộ quân phục vào tủ áo thơm mùi băng phiến. Thay vào đó, ông mặc bộ quần áo dân sự, chuyển sang làm công tác Bảo tàng. Có thể trong số bạn bè ông hoặc những người biết ông sẽ đùa vui rằng ông trở thành hiện vật “cấm sờ” ở Bảo tàng. Đôi khi, tôi cứ tưởng tượng đến một tình huống như vậy... Đằng sau bộ đồ dân sự giản dị ấy, ít ai biết ông có một quá khứ oai hùng, từng chinh chiến trên vùng núi đá tai mèo, được người Mông thán phục.

Tháng 5 năm 1959, phỉ nổi lên ở Đồng Văn (Hà Giang). Vàng Chúng Dình, Vàng Chỉn Cáo, Giàng Vạn Sùng, Lý Nhè Lùng... trực tiếp chỉ huy. Tổng phụ trách là Vàng Chúng Dình. Phụ trách vũ khí là Vàng Sè Na. Phụ trách lương thực tài chính là Sùng Mí Chiu... Quân phỉ đào đắp công sự, bắn chết một công an, bắn bị thương một cán bộ huyện đội, ngăn chặn nhân dân đi nộp thuế, đi họp...

Đến tháng 12 năm 1959 thì tình hình căng thẳng vô cùng. Quân phỉ bắn vào trụ sở huyện Đồng Văn (ngày 9-12) giữa lúc có đoàn cán bộ Khu ủy Việt Bắc và Tỉnh ủy Hà Giang lên công tác, gây thương vong cho nhiều cán bộ như ông Bế Ngọc Bảo - Khu ủy viên, Giám đốc Sở Giáo dục Khu tự trị Việt Bắc. Còn ông Nông Văn Quang - Thường vụ Khu ủy chạy qua biên giới rồi tìm đường vào Bảo Lạc (Cao Bằng) mới thoát chết.

Chủ nhiệm Hoàng Việt Hưng hướng dẫn Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Bảo tàng Việt Bắc (Tư liệu gia đình).

Chủ nhiệm Hoàng Việt Hưng hướng dẫn Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Bảo tàng Việt Bắc (Tư liệu gia đình).

Quân phỉ ngày càng hung hãn hơn. 3 ngày sau, Vàng Chúng Dình tập trung 200 quân tấn công thị trấn Đồng Văn, rồi cô lập và chiếm giữ thị trấn.

Nhận được tin báo, Trung đoàn trưởng Việt Hưng nai nịt lên Đồng Văn. Thấy dân chúng bỏ chạy trong hỗn loạn, ông hô to:

- Cư tì pê chỉ say! (Bà con ơi đừng sợ). Việt Hưng đây. Quân Việt Hưng không bắn vào nhân dân đâu. Chỉ say (Đừng sợ). Việt Hưng đây...

Nghe tiếng ông, mấy người già đứng lại, họ giơ tay chới với trong không trung, miệng cũng gọi lại: Việt Hưng! Việt Hưng!

Trung đoàn trưởng nói thêm bằng tiếng Mông:

- Cư tì pê. (Quay về đi). Không đi theo bọn cầm súng, ra nơi chiến trận đạn lạc đấy. Đạn lạc thì tủa lớ. Mùa chế mùa chế lớ. (Chết đấy. Quay về nhà thôi).

Nghe tiếng Việt Hưng, đám đông xao xác, rồi mẹ dắt con, cháu dắt ông... lục tục quay về, không nghe theo những lời dọa nạt của quân phỉ.

Cuộc chiến đấu bảo vệ Đồng Văn những năm tháng ấy sau này được nhà văn Ngôn Vĩnh, nguyên Tổng Biên tập Báo Công an nhân dân viết lại, rồi tiểu thuyết hóa. Từ nguyên mẫu đến tiểu thuyết hóa là những khúc xạ, phải những người trong cuộc mới biết được ai là ai. Theo thời gian, những người trong cuộc dần khuất bóng. Lớp hậu sinh không dễ mà biết được ai là nguyên mẫu trong những cán bộ chỉ huy hồi đó, từ ông Lê Đình Thiệp - Phó Chính ủy Quân khu Việt Bắc; ông Lê Văn Lương - Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang; ông Mai Trung Lâm - Chính ủy kiêm Giám đốc Công an vũ trang Khu tự trị Việt Bắc; ông Hoàng Văn Kiểu - Thường vụ Khu ủy Việt Bắc; ông Vương Quỳnh Anh (cháu vua Mèo - Vương Chí Sình) - Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Hà Giang;...

Một điều may mắn là, Thượng tá Hoàng Việt Hưng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 246 (Đoàn Tân Trào), người trực tiếp chỉ đạo mặt trận Đồng Văn trong cuộc tiễu phỉ năm 1959-1960 đã kể lại trong hồi ký do nhà văn Hoàng Triều Ân ghi.

Trung đoàn trưởng Hoàng Việt Hưng cấp tốc lên ngay Hà Giang nghiên cứu tình hình thổ phỉ ở Đồng Văn. Một mặt, ông đưa y tá lên chữa bệnh cho dân và điều tra tình hình. Mặt khác, ông cử trinh sát, có người địa phương dẫn đường, đi bộ vượt qua hàng chục trạm gác lên đỉnh Cổng Trời để xác minh cụ thể từng cứ điểm. Để đỡ tốn xương máu, ông Hoàng Việt Hưng cùng ông Vương Quỳnh Anh và một số cán bộ huyện Đồng Văn lên Cổng Trời thuyết phục quân phỉ mở đường cho nhân dân đi lại làm ăn. Song, cuộc thương thuyết không thành. Ngoại giao chấm dứt, chỉ còn phương án sử dụng vũ lực.

Biết rằng đánh lên Cổng Trời không giản đơn chút nào, sau khi nắm chắc được cách bố phòng của quân phỉ, Trung đoàn trưởng Hoàng Việt Hưng đưa ra phương án chiến đấu khá táo bạo: Tổ chức 3 cánh quân đánh lên vùng Cán Tỷ - Cổng Trời.

Đồng Văn những ngày cuối năm Kỷ Hợi (1959) sang năm Canh Tý (1960) rét quắt tai. Một vài nơi trên đỉnh núi đã có tuyết. Gió gầm gào như muốn giật từng người lính ra khỏi vách đá tai mèo lởm chởm, nhọn hoắt như những lưỡi mác. Sau 15 năm trở lại với vùng núi đá tai mèo, ông Việt Hưng không khỏi xao xuyến trong lòng. Ông nhớ đến những cán bộ người Mông hoạt bát, dũng cảm, giác ngộ cách mạng, không biết ai còn ai mất sau 15 năm. Đã gần một thế hệ rồi, Hoàng A Váng ở Du Già có con mắt nhìn chiến lược; Sùng Dua Hầu nhiều mưu trí và đầy nhiệt tình yêu nước... Nhớ quá đi thôi! Ban ngày làm việc. Ban đêm vẫn làm việc. Đã bao đêm các cán bộ Trung đoàn 246 thấy Trung đoàn trưởng Việt Hưng thao thức không ngủ. Ông trăn trở tìm gặp các cơ sở cách mạng cũ, tìm kế hoạch tác chiến...

Ngày 30-1-1960, là mồng 3 tết Canh Tý, huyện Đồng Văn mở hội tưng bừng đón tết hòa bình sau khi tiêu diệt vị trí cuối cùng của quân phỉ ở Mã Sồ. Đó là những kỷ niệm không bao giờ quên với Trung đoàn trưởng Hoàng Việt Hưng.

Tư lệnh phía Bắc Hà Giang

Đúng 15 năm trước đó, ở tuổi thanh niên, Việt Hưng đã chinh chiến trên vùng núi đá tai mèo từ Cao Bằng sang Hà Giang, hoạt động ở phía Bắc của tỉnh, góp phần xây dựng chính quyền mới. Trước khi sang Hà Giang, Hoàng Việt Hưng công tác ở khu Thiện Thuật - vùng núi đá tai mèo thuộc các huyện Hòa An và Nguyên Bình. Trước tình hình mới, đồng chí Tống (tức Phạm Văn Đồng) giao nhiệm vụ mở một tuyến đường liên lạc về xuôi gặp Quốc lộ 2 (Hà Giang - Tuyên Quang - Phú Thọ) đề phòng các tuyến khác trên chiến khu bị đứt đoạn. “Công tác của các đồng chí nằm trong kế hoạch Tây Tiến của đoàn thể”, đồng chí Tống nói.

Việt Hưng tức tốc sang phía Tây Nam Phya Dạ (Nhiêu Lai, Hà Giang). Có anh Bệ, người Mông ở Nhiêu Lai sang đón. Chỉ trong 3 tháng, từ tháng 6 đến tháng 9-1944, một hành lang liên lạc từ bờ sông Gâm (Yên Minh - Bắc Mê) sang giáp sông Lô (Vị Xuyên - Quốc lộ 2) được Việt Hưng hoàn thành.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), tình hình Hà Giang hết sức phức tạp. Căn cứ vào tình hình thực tế, Hoàng Việt Hưng đã chủ động xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho việc giành chính quyền khi có thời cơ. Hà Giang hiểm trở. Khi Chính phủ ra mắt tại Hà Nội, tỉnh lỵ Hà Giang vẫn trong tay quân Tàu Tưởng thuộc Quân đoàn 52 do Triệu Công Vỹ chỉ huy. Theo sau là Hoàng Quốc Chính - Ủy viên Trung ương Việt Nam Quốc dân đảng, chiếm giữ thị xã Hà Giang rồi tỏa ra chiếm một phần Vị Xuyên, Bắc Quang, Quản Bạ.

Hoàng Việt Hưng đem quân tiến xuống Quản Bạ, sau đó liên hệ với Nguyễn Duy Viên (Ba Viên) làm binh biến chiếm thị xã Hà Giang.

Ngày 8-12-1945 thị xã Hà Giang được giải phóng. Hoàng Việt Hưng cùng Lý Đào (tức Lý Thủy Thọ, sau Cách mạng Tháng Tám 1945 về công tác ở Bộ Tổng tham mưu) tiến vào thị xã. Trong hồi ký, ông cho biết, đây là hai người phụ trách bộ đội Chính phủ vào thị xã Hà Giang đầu tiên. Cũng trong ngày hôm ấy, hai ông Thanh Phong và Mai Trung Lâm hoạt động ở mạn Hà Giang - Bắc Quang - Hoàng Su Phì, Vị Xuyên, cũng vừa mới lên thị xã và đang tìm gặp Hoàng Việt Hưng.

Những công việc cần thiết để thành lập chính quyền tại Hà Giang được gấp rút bàn bạc và thực hiện. Ngày 25-12-1945, Ủy ban Hành chính tỉnh Hà Giang làm lễ tuyên bố thành lập. Trong cuộc mít-tinh, ông Thanh Phong - Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Hà Giang nói về ý nghĩa thành lập chính quyền mới. Ông Hồng Quân - Bí thư Ban Cán sự (nay là Bí thư Tỉnh ủy) nói về Việt Minh lãnh đạo cách mạng. Ông Hoàng Việt Hưng nói về chặng đường khởi sự của cách mạng Hà Giang. Vì đa số dân chúng là người Mông nên ông được ban tổ chức đề nghị nói bằng tiếng Mông.

Sau lễ mít-tinh, Ủy ban Hành chính tỉnh Hà Giang đã họp phiên đầu tiên để bầu các chức vụ: ông Thanh Phong - Chử tịch Ủy ban Hành chính tỉnh; ông Lê Thọ Huề - Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh; ông Quán Văn Công - Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh; ông Trần Thiên Tân - Ủy viên, Trưởng Ty Liêm phóng; ông Chu Đức Tung - Ủy viên Thư ký; ông Mai Trung Lâm - Ủy viên Quân sự; ông Vương Chí Sình - Ủy viên kiêm Chủ tịch huyện Đồng Văn; ông Phó Ngạn - Ủy viên.

Đến tháng 3-1946, ông Hoàng Việt Hưng nhận lệnh của Trung ương, chia tay Hà Giang về Quân khu I nhận công tác mới: cán bộ quân huấn.

Con đường cách mạng gắn liền với ngạch quân sự của đời ông suốt 15 năm cho đến khi ông rũ chiến bào, xếp gọn bộ quân phục vào tủ áo thơm mùi băng phiến. Làm Chủ nhiệm Bảo tàng mới thành lập, rồi Phó Ban Tổ chức Dân Chính Đảng Khu tự trị Việt Bắc cho đến khi nghỉ hưu năm 1974. Những kỷ niệm của một thời trai trẻ trong ký ức ùa về bao. Tại Thái Nguyên, ông đã kể lại để nhà văn Triều Ân ghi những trang hồi ký Chinh chiến trên vùng núi đá tai mèo lưu lại cho đời sau.

Thượng tá Hoàng Việt Hưng (1918-2001) bí danh Hoàng Thành Châu, còn có tên gọi khác là Đặng Việt Hưng. Sinh ra và lớn lên tại xã Phúc Tăng, tổng Nhượng Bạn, châu Thạch Lâm; nay là xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

Vốn giỏi chữ Hán, ông được cử sang Trung Quốc học quân sự tại Liễu Châu (Phân hiệu Hoàng Phố) cùng các ông Hoàng Văn Thái (Đại tướng), Hoàng Minh Thảo (Thượng tướng), Vũ Lập (Thượng tướng), Nam Long (Trung tướng),...

Kiều Mai Sơn

Nguồn ANTG: http://antgct.cand.com.vn/nhan-vat/thuong-ta-hoang-viet-hung-hoi-quang-sau-chien-bao-585282/