Thực trạng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Phần thứ hai của chuyên đề 'Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới'.

 Ảnh: Tuyengiao.vn.

Ảnh: Tuyengiao.vn.

I. Những kết quả đạt được và hạn chế, bất cập

1. Trong bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân

Kết quả đạt được

Thứ nhất, quan điểm, nhận thức của Đảng ta về quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, vai trò chủ thể của Nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc, đặc biệt kể từ khi chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân được Đảng ta khẳng định tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994). Đại hội XI (2011) của Đảng đã bổ sung nội dung “kiểm soát quyền lực nhà nước” với tư cách là một bước phát triển về nhận thức của Đảng trong việc bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, được tổ chức và vận hành trong giới hạn mà Nhân dân ủy thác, phải được kiểm soát để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền. Các quan điểm đó đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Đại hội XIII của Đảng chủ trương “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ”; thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân”.

Thứ hai, chủ trương phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước đã được thể chế hóa ngày càng đầy đủ, hoàn thiện và thực hiện có kết quả. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng về đề cao chủ quyền nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đã hình thành cơ chế kiểm soát của Nhân dân đối với quyền lực nhà nước bằng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận. Một số quyền dân chủ trực tiếp đã được thể chế trong Luật trưng cầu ý dân; Luật tín ngưỡng tôn giáo; Luật khiếu nại, Luật tố cáo; Luật tiếp cận thông tin và các bộ luật: hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự. Quyền dân chủ trực tiếp thông qua hoạt động bầu cử, ứng cử; tham gia vào quản lý nhà nước của Nhân dân tiếp tục được củng cố và có những bước tiến quan trọng. Quyền tiếp cận thông tin của người dân đã được chú trọng triển khai thực hiện và đạt được kết quả bước đầu quan trọng.

Hạn chế, bất cập

Thứ nhất, nhận thức của một số cơ quan, tổ chức và một bộ phận cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị về vai trò chủ thể, chủ quyền nhân dân trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa đầy đủ, sâu sắc.

Thứ hai, việc tiếp nhận, xử lý, phản hồi ý kiến của Nhân dân có lúc, có nơi chưa kịp thời, còn mang tính hình thức. Hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân chưa cao.

Thứ ba, công tác giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên ở một số địa phương, cơ sở còn hình thức, chất lượng chưa cao. Việc tham gia xây dựng pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đôi khi vẫn chưa chủ động, chưa chú trọng đổi mới, đề xuất phương pháp, cách thức tổ chức lấy ý kiến một cách phù hợp và hiệu quả.

2. Trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Kết quả đạt được

Thứ nhất, nhận thức của Đảng và Nhà nước về tầm quan trọng của việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ngày càng đầy đủ.

Kể từ khi tiến hành đường lối đổi mới (năm 1986) đến nay, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn và đúng đắn về quyền con người, quyền công dân thể hiện trong các văn kiện từ Đại hội VI đến Đại hội XIII và trong nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Nhận thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp về tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân có nhiều thay đổi tích cực, xem quyền con người là những giá trị nhân văn, tiến bộ có tính phổ quát, thuộc về toàn nhân loại và là một nội dung trong mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, thể chế về quyền con người, quyền công dân được quan tâm hoàn thiện. Hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân cơ bản là toàn diện trên tất cả lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hiến pháp năm 2013 đã quy định bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ hàng đầu của các thiết chế trong bộ máy nhà nước. Hàng loạt bộ luật, luật được ban hành đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về quyền con người. Nhà nước Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia các cơ chế toàn cầu và khu vực về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của ILO về lao động, việc làm.

Thứ ba, các thiết chế trong bộ máy nhà nước có nhiều nỗ lực trong công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Quốc hội đã có nỗ lực lớn trong việc ban hành các luật để điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; tăng cường giám sát những vấn đề quan trọng hoặc bức xúc trong cuộc sống của Nhân dân như: Hoạt động tư pháp, bắt giam, xét xử, thi hành án; công tác cải tạo, giam giữ; an sinh xã hội, khiếu nại, tố cáo; vấn đề oan, sai trong tư pháp hình sự; bạo lực, xâm hại trẻ em... góp phần bảo đảm, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Chủ tịch nước với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, đã thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của mình. Chính phủ đã triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước; phân công, điều hòa hoạt động các bộ/ngành trong thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người. Trong hoạt động tư pháp, việc bảo vệ quyền con người ngày càng được coi trọng...

Hạn chế, bất cập

Thứ nhất, vẫn còn một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chịu ảnh hưởng bởi tư duy cũ, chưa nhận thức thấu đáo chủ trương của Đảng về quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013, về các nghĩa vụ của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Thứ hai, thực tiễn thực hiện thể chế về quyền con người có mặt còn bất cập. Hoạt động lập pháp được tăng cường, nhưng chưa bảo đảm sự tham gia rộng rãi của những đối tượng chịu sự tác động, việc lấy ý kiến về dự án luật có một số trường hợp còn hình thức, thời gian dành cho lấy ý kiến ngắn, đối tượng được lấy ý kiến chưa đầy đủ.

3. Trong bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật

Kết quả đạt được

Thứ nhất, nhận thức về yêu cầu thượng tôn Hiến pháp và pháp luật của Đảng ta ngày càng đầy đủ. Đại hội XIII của Đảng khẳng định “tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần 'thượng tôn pháp luật'”.

Thứ hai, yêu cầu bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật đã được hiến định khá đầy đủ. Tất cả Hiến pháp của nước ta qua các thời kỳ đều thể hiện nhất quán tinh thần Hiến pháp là luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) (Điều 12) quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”, Hiến pháp năm 2013 (Điều 8 và Điều 119) quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”; “Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”.

Thứ ba, trên cơ sở Hiến pháp, hệ thống pháp luật đã được xây dựng cơ bản đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, phù hợp, khả thi để kịp thời điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, phục vụ kiến tạo phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng. Về cơ bản, cơ chế pháp lý thực thi nguyên tắc Nhân dân làm chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước được tạo dựng; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng khá toàn diện, đầy đủ và thường xuyên được nghiên cứu, đổi mới để điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước từ Trung ương tới địa phương. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp được định hình ngày càng rõ hơn trong các văn bản quy phạm pháp luật. Pháp luật phục vụ hội nhập quốc tế đã hình thành khung pháp lý thống nhất. Quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên tục được hoàn thiện.

Thứ tư, cơ chế kiểm soát, bảo đảm việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước đã được thiết lập, ngày càng hoàn thiện, bao gồm cơ chế kiểm soát trong bộ máy nhà nước và cơ chế kiểm soát từ phía Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.

Thứ năm, công tác tổ chức thực hiện pháp luật đã có nhiều đổi mới, bảo đảm gắn kết chặt chẽ hơn với công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Công tác ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết được các cơ quan đặc biệt quan tâm, thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ. Việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật được tiến hành ngày càng bám sát thực tiễn, kịp thời đề xuất hoàn thiện pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng được đẩy mạnh, có nhiều đổi mới, có trọng tâm, trọng điểm, hướng về cơ sở, ứng dụng công nghệ thông tin được tăng cường. Công tác theo dõi, đôn đốc việc thi hành pháp luật được tiến hành tương đối bài bản; tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra kịp thời phát hiện các vi phạm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Thứ sáu, công tác phòng, chống tham nhũng được lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, được cán bộ, đảng viên và Nhân dân đồng tình, ủng hộ. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn và có chiều hướng giảm. Công tác giám sát việc triển khai thi hành Hiến pháp, pháp luật được quan tâm, chú trọng, dần đi vào nền nếp. Công tác tổng kết thực tiễn thi hành luật, pháp lệnh để nhận diện vấn đề bất cập, phân tích nguyên nhân và đề xuất định hướng chính sách phục vụ việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật ngày càng được các bộ, ngành quan tâm, trở thành khâu quan trọng làm cơ sở đề xuất việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật.

Hạn chế, bất cập

Thứ nhất, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật chưa thực sự trở thành thói quen ứng xử phổ biến trong xã hội, kể cả trong một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức. Tình trạng vi phạm pháp luật vẫn diễn biến phức tạp.

Thứ hai, hệ thống pháp luật còn hạn chế, bất cập:

- Chất lượng của hệ thống pháp luật chưa cao, tính dân chủ và công bằng của pháp luật chưa được bảo đảm đầy đủ. Pháp luật trên một số lĩnh vực còn thiếu tính ổn định, tính dự báo chưa cao, còn sửa đổi nhiều; trong hệ thống pháp luật vẫn còn những quy định chưa phù hợp với thực tiễn, thiếu khả thi, mâu thuẫn, chồng chéo; một số chủ trương của Đảng về xây dựng pháp luật chậm được thể chế hóa.

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Nhà nước vẫn chưa hoàn toàn đầy đủ; quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức trong một số giai đoạn còn có điểm chồng chéo, trùng lắp hoặc chưa đồng bộ.

- Pháp luật về hình thành và hoạt động của các thị trường còn chưa đồng bộ, còn thiếu các cơ chế hiệu quả để kiểm soát, quản lý, xử lý vi phạm.

- Pháp luật về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thể thao, du lịch có mặt chưa theo kịp chủ trương của Đảng. Pháp luật điều chỉnh một số vấn đề mới như an ninh mạng, kinh tế số, môi trường cần tiếp tục được hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung.

- Thể chế pháp luật trong lĩnh vực hội nhập quốc tế có trường hợp chưa thực sự thích ứng nhanh với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, làm ảnh hưởng đến việc tận dụng các cơ hội.

- Quy trình lập pháp chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm của chủ thể đề xuất sáng kiến, dự án luật; đánh giá tác động có trường hợp còn hình thức, chưa bảo đảm sự tham gia rộng rãi của những đối tượng chịu sự tác động; việc lấy ý kiến về dự án luật, pháp lệnh còn nhiều hạn chế; chưa tận dụng và phát huy mạnh mẽ vai trò của công nghệ trong hoạt động lập pháp.

Thứ ba, tổ chức thực hiện pháp luật vẫn là một khâu yếu, nhiều tồn tại, hạn chế, chậm được khắc phục; chi phí tuân thủ pháp luật còn cao; kỷ luật, kỷ cương nhìn chung chưa nghiêm, có lúc, có việc còn lỏng lẻo, tính răn đe, giáo dục chưa cao; chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa tổ chức thực hiện pháp luật với xây dựng pháp luật... Tình trạng pháp luật không được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất, triệt để đã ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tác động xấu đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Công tác kiểm tra, phát hiện, xử lý một số văn bản trái pháp luật chưa kịp thời; việc khắc phục hậu quả, xử lý trách nhiệm của cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật chưa thực hiện được. Công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật chưa kịp thời và “trúng” những “điểm nghẽn” về pháp luật; việc khắc phục mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở sự phát triển trong hệ thống pháp luật sau rà soát còn chậm, chưa đạt được kết quả rõ nét. Việc triển khai các hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật ở nhiều bộ, ngành và địa phương vẫn còn mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy vai trò, hiệu quả của công cụ kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoạt động giám sát, kiểm tra, phản biện xã hội trong thực hiện chính sách, pháp luật hiệu quả chưa cao, nhất là giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật chưa được quan tâm đúng mức. Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong một số cơ quan, đơn vị khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi.

4. Trong tổ chức, vận hành quyền lực nhà nước và cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước

Kết quả đạt được

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức khá rõ về vị trí, tầm quan trọng, nội dung và các yêu cầu bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất. Đã thống nhất nhận thức về sự cần thiết của cơ chế phân công, phối hợp và nhất là kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.

Thứ hai, về thể chế, nguyên tắc “phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” đã được hiến định và được cụ thể hóa bằng pháp luật. Hiến pháp năm 2013 đã phân công rõ Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Thứ ba, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được vận hành và phát huy tác dụng trong thực tiễn, tạo chuyển biến tích cực. Quốc hội đã thực hiện quyền lập pháp đạt kết quả ngày càng cao; sự phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ trong việc thực hiện quyền lập pháp khá nhịp nhàng. Hoạt động giám sát tối cao có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Chủ tịch nước thực hiện đúng và đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn trong hoạt động đối nội và đối ngoại. Chính phủ coi trọng công tác hoạch định chính sách để quản lý các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô, tháo gỡ các rào cản, phục vụ, hỗ trợ kiến tạo phát triển. Hoạt động tư pháp được thực hiện theo trình tự, thủ tục tố tụng ngày càng chặt chẽ, tăng cường tính tranh tụng với mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Hạn chế, bất cập

Thứ nhất, tư duy cũ về tổ chức quyền lực nhà nước vẫn còn ảnh hưởng đến cách hiểu và áp dụng nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thứ hai, quy định pháp luật về phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước còn có nội dung chưa cụ thể, chưa rõ; còn tình trạng phân công nhưng chưa rành mạch hoặc trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ; cơ chế phối hợp trong tổ chức quyền lực nhà nước chưa rõ ràng, hợp lý; cơ chế kiểm soát quyền lực chưa đầy đủ, chặt chẽ.

Thứ ba, trong thực tiễn, việc phân công và xác định trách nhiệm giữa các chủ thể trong quy trình lập pháp chưa hợp lý; ủy quyền lập pháp còn lúng túng; việc phối hợp giữa các bộ, ngành, giữa cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra chưa thực sự chặt chẽ, nhịp nhàng, chưa phân định minh bạch vai trò, trách nhiệm giữa cơ quan trình dự án luật đối với việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật sau khi Quốc hội cho ý kiến.

5. Trong cải cách hành chính đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Kết quả đạt được

Thứ nhất, Đảng đã sớm nhận thức rõ về nhu cầu và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo cải cách nền hành chính nhà nước, tạo sự lan tỏa, tác động mạnh mẽ, sâu rộng đến nhận thức và hành động của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước các cấp nói riêng trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước.

Thứ hai, thể chế phục vụ cải cách hành chính được quan tâm hoàn thiện. Chiến lược tổng thể cải cách hành chính cho từng giai đoạn được ban hành sớm. Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng về cải cách hành chính và tổ chức thực hiện một cách toàn diện, hệ thống, đồng bộ trên phạm vi cả nước, tập trung vào cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh và hoạt động kiểm tra chuyên ngành, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm lợi ích chính đáng và quyền làm chủ của Nhân dân; tạo cơ sở pháp lý để kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Thứ ba, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đã được kiện toàn theo hướng Chính phủ tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, luật pháp, cơ chế, chính sách; nâng cao năng lực dự báo, chỉ đạo, quản lý, điều hành; tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm soát quá trình tổ chức thực hiện pháp luật; cơ cấu của Chính phủ từng bước được tinh gọn với mô hình bộ quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc; khắc phục một bước tình trạng trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành.

Thứ tư, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương được Hiến pháp và luật quy định theo hướng có sự linh hoạt trong mô hình tổ chức ở đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; quy định 6 nguyên tắc phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

Thứ năm, nhiều chủ trương quan trọng nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bộ máy nhà nước được ban hành. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được đổi mới; bước đầu rà soát, cắt giảm các chứng chỉ bồi dưỡng bất hợp lý.

Thứ sáu, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách hành chính và xây dựng chính phủ điện tử đã đạt kết quả tích cực. Hình thành các cơ sở dữ liệu quốc gia; đầu tư, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, phần mềm, cơ sở dữ liệu nền tảng; cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến cho người dân và doanh nghiệp; triển khai các hệ thống một cửa điện tử; trục liên thông văn bản quốc gia; nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NGSP); cổng dịch vụ công quốc gia; hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ (Hệ thống e-cabinet)...

Hạn chế, bất cập

Thứ nhất,tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc. Chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính chưa được xác định thật rõ và phù hợp, nhất là trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch.

Thứ hai, việc phân công, phối hợp giữa các thành viên Chính phủ chậm đổi mới; số lượng bộ, cơ quan ngang bộ còn nhiều; vẫn còn tình trạng chồng lấn chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với các bộ, ngành chưa hợp lý; tính chuyên nghiệp của bộ máy tham mưu, giúp việc Chính phủ trong từng lĩnh vực còn hạn chế.

Thứ ba, phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương nhìn chung chưa phù hợp; vẫn còn tình trạng tập trung quá mức vào Trung ương; việc phân cấp chưa mạnh, có việc phân cấp chưa thực sự hợp lý; chưa đồng bộ, phù hợp với vị trí, vai trò của từng cấp chính quyền và đặc thù từng loại chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo. Phân cấp, phân quyền trên một số ngành, lĩnh vực chưa hợp lý, nhất là trong quản lý kinh tế; chưa phát huy hết được vai trò, trách nhiệm, sự chủ động của các cấp chính quyền địa phương. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chưa được đổi mới phù hợp; số lượng đơn vị hành chính và số đơn vị hành chính có quy mô diện tích nhỏ, dân số ít so với tiêu chuẩn còn nhiều, cơ chế liên kết giữa địa phương trong vùng chưa hiệu quả. Cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực giữa Trung ương và địa phương chưa hoàn thiện, đồng bộ với yêu cầu đẩy mạnh phân cấp, phân quyền.

Thứ tư, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, tính chuyên nghiệp chưa cao; công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý vi phạm chưa thường xuyên và thiếu nghiêm túc, thiếu tính răn đe; tính công khai, minh bạch của nền hành chính còn nhiều hạn chế; chính sách tiền lương trong khu vực công còn mang tính bình quân, cào bằng, chưa thực sự tạo được động lực để nâng cao hiệu quả làm việc của người lao động.

6. Trong cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Kết quả đạt được

Thứ nhất, Đảng ta đã sớm nhận thức về tính cấp thiết của việc cải cách tư pháp, ban hành các nghị quyết quan trọng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị), trong đó xác định tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.

Thứ hai, thể chế tư pháp được quan tâm hoàn thiện: nhiều quy định mới được ban hành, nhiệm vụ hiến định “bảo vệ công lý” của tòa án được quy định rõ; yêu cầu bảo đảm độc lập xét xử được tăng cường. Nguyên tắc tranh tụng được hiến định; hệ thống các luật, bộ luật về tổ chức và hoạt động tư pháp được ban hành khá đầy đủ.

Thứ ba, tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân có nhiều đổi mới: (1) Đã bước đầu kết hợp tổ chức tòa án theo cấp xét xử với tổ chức tòa án theo đơn vị hành chính; tiêu chuẩn thẩm phán được nâng cao; nhiệm kỳ bổ nhiệm được kéo dài hơn; (2) Tòa án nhân dân được tổ chức theo 4 cấp thay vì 3 cấp như trước đây; thẩm quyền của tòa án nhân dân các cấp được xác định rõ ràng, cụ thể hơn; tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, việc tổ chức phiên tòa, thủ tục hành chính tư pháp được đổi mới, tăng tính dân chủ, minh bạch, hiệu quả và bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia; đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án được nâng cao cả về chất lượng và số lượng.

Thứ tư, tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân tiếp tục được kiện toàn: Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo 4 cấp thay vì 3 cấp như trước đây; chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của các đơn vị viện kiểm sát nhân dân được điều chỉnh, ngày càng hoàn thiện; bước đầu xây dựng đội ngũ công chức, kiểm sát viên theo hướng “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”. Trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự, đã thực hiện có hiệu quả chủ trương “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra” và “nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa”, chống oan sai, chống bỏ lọt tội phạm.

Thứ năm, tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định thống nhất bằng Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021). Tổ chức hoạt động điều tra theo hướng tập trung, thống nhất và chuyên sâu, chuyên trách đối với các loại tội phạm cụ thể; tạo ra cơ chế huy động được đầy đủ và nhanh nhất lực lượng, phương tiện khi có yêu cầu điều tra vụ án.

Thứ sáu, tổ chức của các cơ quan thi hành án được kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động: (1) Pháp luật điều chỉnh hoạt động tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự được quan tâm xây dựng tương đối hoàn thiện; hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân được xây dựng, kiện toàn theo hướng tập trung, thống nhất, từng bước chuyên môn hóa; (2) Thể chế về thi hành án dân sự tiếp tục được hoàn thiện; tổ chức, cán bộ được củng cố, kiện toàn; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát được bảo đảm; cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự được bố trí ngày càng tốt hơn, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; kết quả thi hành án dân sự không ngừng nâng cao, năm sau luôn cao hơn năm trước và cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự do Quốc hội giao.

Thứ bảy, chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp được triển khai nghiêm túc và có nhiều kết quả tích cực, góp phần hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý.

Hạn chế, bất cập

Thứ nhất, nhận thức lý luận về tư pháp, cải cách tư pháp chưa đầy đủ, toàn diện, hệ thống: Một số vấn đề cốt lõi của tư pháp, của cải cách tư pháp như quyền tư pháp, cơ quan tư pháp, hệ thống tư pháp, độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chưa được nhận thức một cách thống nhất và đầy đủ, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện cải cách tư pháp và hiệu quả giám sát quyền lực nhà nước trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử...

Thứ hai, về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân: Cơ chế bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chưa hoàn thiện; một số quy định về chức năng, nhiệm vụ cụ thể của tòa án trong quá trình tiến hành tố tụng còn chưa phù hợp; đội ngũ cán bộ, công chức tòa án còn thiếu; chế độ, chính sách chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; kinh phí, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của tòa án; quản trị tòa án còn bất cập; việc giao cho tòa án nhân dân tối cao quản lý về tổ chức các tòa án nhân dân là chưa thực sự hợp lý; vai trò của hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia chưa thật sự rõ ràng, chưa đạt hiệu quả cao như kỳ vọng, nhất là trong việc miễn nhiệm, cách chức thẩm phán; chưa có chế tài để bảo đảm thực hiện quy định của Hiến pháp về nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm; mô hình tố tụng hình sự chưa đáp ứng các đòi hỏi của tranh tụng; một số nguyên tắc tố tụng tiến bộ vẫn chưa được cụ thể hóa đầy đủ, vẫn còn sự bất bình đẳng giữa các chủ thể của tố tụng hình sự; tư pháp dân sự, kinh doanh, thương mại còn khó tiếp cận, thời hạn giải quyết còn bị kéo dài, chưa bảo đảm đầy đủ nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự; công tác giám sát hoạt động tư pháp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân chậm đổi mới; cơ chế kiểm sát hoạt động xét xử có mặt chưa thực sự phù hợp.

Thứ ba, tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân còn một số bất cập, thiếu chặt chẽ trong kiểm soát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự; chất lượng, trách nhiệm công tố của kiểm sát viên tại một số phiên tòa chưa ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ cải cách tư pháp; điều kiện vật chất còn hạn chế...

Thứ tư, tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra còn một số bất cập trong việc phối hợp giữa các cơ quan điều tra trong trao đổi nghiệp vụ, cơ chế kiểm soát quyền lực,...

Thứ năm, tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án còn một số hạn chế về công tác tạm giữ, tạm giam, thi hành án; quan hệ phối hợp giữa các cơ quan thi hành án thiếu chặt chẽ; cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ chưa đáp ứng yêu cầu...

Thứ sáu, việc hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên tòa chưa đầy đủ, chưa xác định rõ trách nhiệm của luật sư trong tố tụng, công tác giám định tư pháp, nhất là xã hội hóa giám định tư pháp, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; thiếu thể chế phù hợp cho việc phát triển nghề thừa phát lại; trọng tài và hòa giải thương mại có mặt còn chậm phát triển.

7. Trong việc tôn trọng và thực hiện pháp luật quốc tế, các cam kết quốc tế của Việt Nam

Kết quả đạt được

Thứ nhất, nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của pháp luật quốc tế, của các thỏa thuận quốc tế gắn liền với nhận thức về công tác đối ngoại ngày càng sâu sắc, với mục tiêu: bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia; nâng cao vị thế, uy tín, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác; tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi, thu hút nguồn lực phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Thứ hai, Việt Nam đã tham gia định hình thể chế quản trị khu vực và toàn cầu, tham gia đàm phán và ký kết thành công hơn 80 điều ước quốc tế đa phương, là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu; Việt Nam tham gia hiệu quả vào xây dựng cộng đồng ASEAN; gia nhập nhiều điều ước quốc tế đa phương về tương trợ tư pháp.

Thứ ba, Việt Nam đã xác lập cơ chế quan hệ giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; tích cực hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước để nội luật hóa các cam kết quốc tế, bảo đảm tổ chức và hoạt động của các thiết chế nhà nước phù hợp với các cam kết quốc tế.

Thứ tư, hội nhập quốc tế đã góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tham gia các thiết chế, tổ chức đa phương, bao gồm các cơ quan pháp lý của Liên hợp quốc, các cơ quan tài phán quốc tế.

Hạn chế, bất cập

Thứ nhất, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế chưa thực sự đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; việc rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản thực hiện một số điều ước quốc tế còn chậm.

Thứ hai, chưa bảo đảm sự đồng bộ trong thực thi các cam kết quốc tế ở các cấp chính quyền, nhất là cấp chính quyền địa phương; năng lực quản lý rủi ro pháp lý, nhất là đối với tranh chấp, thương mại, đầu tư có yếu tố nước ngoài chưa đáp ứng yêu cầu; còn thiếu khung khổ pháp lý phù hợp để thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng tái tạo.

Thứ ba, chất lượng đội ngũ cán bộ phục vụ hội nhập quốc tế về pháp luật, tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu. Năng lực tiếp cận các điều ước quốc tế, các giải thích và án lệ của các thiết chế tư pháp quốc tế, các tòa án nước ngoài còn hạn chế.

8. Trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội

Kết quả đạt được

Thứ nhất, Đảng không ngừng hoàn thiện Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, làm rõ hơn mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo cơ sở lý luận, chính trị cho sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ hai, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa khá đầy đủ các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành các văn bản pháp luật; đồng thời, quan tâm lãnh đạo Nhà nước tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, Hiến pháp và pháp luật, phát huy sức mạnh toàn dân tộc cho sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không ngừng tăng cường vị thế và tiềm lực đất nước.

Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên được coi trọng. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện ngày càng quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu và đạt được nhiều kết quả quan trọng, rõ rệt, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ, góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.

Thứ tư, vai trò lãnh đạo, nòng cốt, hạt nhân, nêu gương của các cấp ủy, đảng viên trong các cơ quan, tổ chức được phát huy. Chống chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ đã đạt được kết quả tích cực.

Hạn chế, bất cập

Thứ nhất, việc tổ chức quán triệt một số nghị quyết còn chậm, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả, nhất là trong việc thể chế hóa thành pháp luật; sự kiểm tra, giám sát của Đảng đối với việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện một số đường lối, chủ trương của Đảng chưa được quan tâm đúng mức, có lúc chưa kiên quyết.

Thứ hai, công tác tổ chức, cán bộ còn bất cập; còn để xảy ra sai phạm, tiêu cực trong việc bổ nhiệm, quy hoạch, luân chuyển, điều động cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc; chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Thứ ba, cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa thật đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giảm sát, kỷ luật đảng chưa đồng đều ở các cấp. Công tác kiểm tra ở một số nơi chưa thường xuyên, quyết liệt, thiếu trọng tâm, trọng điểm; công tác giám sát có nơi, có lúc chưa thực chất; thi hành kỷ luật đảng chưa nghiêm, còn nể nang, né tránh, ngại va chạm.

Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, NXB Chính trị quốc gia Sự thật

Nguồn Znews: https://zingnews.vn/thuc-trang-xay-dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-post1382500.html