Thủ đoạn khai thác trái phép hơn 5,4 triệu tấn than, để ngoài sổ sách kế toán hơn 963 tỉ đồng
Được cấp phép khai thác than bằng phương pháp lộ thiên là 426.384 tấn, chia đều trong thời hạn 10 năm. Tuy nhiên, Công ty Khoáng sản Bắc Giang đã câu kết với Công ty Xuân An để cùng khai thác. Sau hơn 5 năm, 2 doanh nghiệp này đã khai thác hơn 5,8 triệu tấn than, gấp hơn 13,7 lần trữ lượng được cấp phép.
Câu kết khai thác trái phép hơn 5,4 triệu tấn than
Theo cáo trạng truy tố, Công ty Cổ phần Khoáng sản Bắc Giang (Công ty Khoáng sản Bắc Giang) tiền thân là Xí nghiệp hóa chất Barium (100% vốn nhà nước), được cổ phần hóa, chuyển đổi thành Công ty cổ phần năm 2004, trụ sở tại xã Tân Dĩnh, huyện Lạng Giang, Bắc Giang.
Năm 2016, Công ty Khoáng sản Bắc Giang được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép khai thác than tại Mỏ than Bố Hạ (thuộc 3 xã Đồng Hưu, Đông Sơn, Hương Vỹ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang). Trong đó, diện tích khai thác lộ thiên 52,4ha và diện tích khai thác hầm lò 76,5ha; với trữ lượng được cấp phép khai thác là 1.659.206 tấn than (trong đó, khai thác lộ thiên 426.384 tấn, hầm lò 1.232.822 tấn); công suất khai thác từ 13.445 tấn đến 100.000 tấn than/năm; thời hạn giấy phép khai thác lộ thiên 10 năm, hầm lò 26 năm.
Sau khi được cấp phép, ngoài việc tự khai thác than, đến tháng 2/2017, Công ty Khoáng sản Bắc Giang do Hà Văn Hòe (SN 1955) làm Tổng giám đốc, đại diện đứng ra ký hợp đồng liên kết và phụ lục hợp đồng với Công ty TNHH một thành viên Xuân An (Công ty Xuân An), do Nguyễn Thị Hồng Thắm (SN 1988, trú tại phường Xương Giang, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang) làm Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc Công ty.
Thực tế, Công ty Xuân An do Nguyễn Văn Thảo (SN 1963, trú tại huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi ở phường Dĩnh Kế, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang) thành lập. Nguyễn Văn Thảo đứng chức danh Phó giám đốc và cho Nguyễn Thị Hồng Thắm (SN 1988, trú tại phường Xương Giang, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang) đứng tên đại diện theo pháp luật, cùng tham gia quản lý, điều hành. Thảo tuy là Phó giám đốc nhưng là người quản lý, điều hành cao nhất tại Công ty. Nguyễn Văn Thảo và Nguyễn Thị Hồng Thắm không đăng ký kết hôn nhưng chung sống với nhau và có 5 con chung.
Theo hợp đồng liên kết, Công ty Khoáng sản Bắc Giang cho phép Công ty Xuân An khai thác than lộ thiên trên tổng diện tích 42,7ha, với tỷ lệ phân chia, Công ty Khoáng sản Bắc Giang hưởng 23% và Công ty Xuân An hưởng 77% toàn bộ sản phẩm sau khai thác và Công ty Xuân An được tiêu thụ lượng than khai thác sau khi phân chia.
Để theo dõi sản lượng than khai thác hàng ngày, Công ty Khoáng sản Bắc Giang và Công ty Xuân An đều cử người cùng nhau giám sát tại mỏ và chia sản phẩm khai thác được ngay trong ngày, mở sổ ghi chép theo dõi số liệu gửi về bộ phận kế toán 2 công ty tổng hợp, theo dõi. Hàng tháng, lập bản đối chiếu công nợ sản lượng than khai thác thực tế để đại diện 2 công ty là Hà Văn Hòe và Nguyễn Thị Hồng Thắm cùng ký xác nhận.
Căn cứ các tài liệu đối chiếu công nợ sản lượng khai thác thực tế giữa 2 công ty; dữ liệu điện tử lưu trên máy tính, ổ cứng do kế toán Công ty Xuân An quản lý, xác định: Từ tháng 5/2017 đến hết ngày 31/12/2022, Công ty Xuân An đã khai thác lộ thiên được tổng số hơn 3,7 triệu tấn than. Theo thỏa thuận tại hợp đồng liên kết, Công ty Khoáng sản Bắc Giang được chia hơn 819 nghìn tấn, Công ty Xuân An được hưởng tổng số hơn 2,8 tấn.
Cũng trong thời gian trên, Công ty Khoáng sản Bắc Giang tự khai lộ thiên được tổng số hơn 1.547.119 tấn than, cộng với hơn 819 nghìn tấn được chia theo hợp đồng liên kết với Công ty Xuân An. Như vậy, Công ty Khoáng sản Bắc Giang có tổng cộng hơn 2.366.137 tấn than.
Ngoài ra, quá trình khám xét tại công trường khai thác mỏ than Bố Hạ, cơ quan chức năng còn thu giữ khối lượng than tồn chưa tiêu thụ là hơn 611.700 tấn.
Cơ quan tố tụng xác định, Công ty Khoáng sản Bắc Giang và Công ty Xuân An đã khai thác bằng phương pháp lộ thiên tại mỏ than Bố Hạ, tổng số hơn 5.862.616 tấn than, đã tiêu thụ hơn 5.250.915 tấn, số lượng còn tồn chưa tiêu thu hơn 611.700 tấn. Như vậy, so với giấy phép Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp cho Công ty Khoáng sản Bắc Giang, khai thác bằng phương pháp lộ thiên là 426.384 tấn than thì 2 công ty nêu trên đã khai thác vượt trữ lượng được cấp phép hơn 5.436.232 tấn than.
Để ngoài sổ sách kế toán hơn 963 tỉ đồng
Quá trình điều tra còn xác định, tính đến hết tháng 12/2022, Công ty Khoáng sản Bắc Giang đã xuất bán tổng số hơn 2.098.142 tấn than, sản phẩm phụ từ than cho 75 doanh nghiệp và một số cá nhấn, thu được tổng số tiền hơn 456,6 tỉ đồng. Trong đó, Công ty xuất hóa đơn VAT, đưa vào kê khai, hoạch toán với cơ quan Thuế số lượng hơn 1.284.304 tấn, với tổng số tiền hơn 309,3 tỉ đồng; không xuất hóa đơn, để ngoài sổ sách kế toán số lượng hơn 813.837 tấn với tổng số tiền hơn 154,2 tỉ đồng;
Đối với Công ty Xuân An, tính đến hết tháng 12/2022, đã xuất bán tổng số hơn 4.008.446 tấn than, sản phẩm phụ từ than cho 87 doanh nghiệp và 40 cá nhân, thu được tổng số tiền hơn 951,9 tỉ đồng. Trong đó, Công ty có xuất hóa đơn VAT số lượng hơn 791.445 tấn, với tổng số tiền hơn 144,1 tỉ đồng; không xuất hóa đơn số lượng 3.226.009 tấn, với tổng số tiền hơn 809,4 tỉ đồng.
Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, làm việc với 74 doanh nghiệp và 2 cá nhân đã mua than của Công ty Khoáng sản Bắc Giang, tổng số hơn 1.304.488 tấn, với tổng số tiền hơn 346 tỉ đồng. Trong đó, có hóa đơn hơn 1.266.475 tấn, với số tiền hơn 334,2 tỉ đồng; không có hóa đơn là 38.013 tấn, với số tiền 11,7 tỉ đồng;
Đồng thời, đã tiến hành xác minh, làm việc với 87 doanh nghiệp và 20 cá nhân mua than của Công ty Xuân An, số lượng hơn 1.897.813 tấn, với tổng số tiền hơn 472,8 tỉ đồng. Trong đó, có hóa đơn hơn 600.488 tấn, với số tiền hơn 107,1 tỉ đồng; không có hóa đơn hơn 1.297.324 tấn, với số tiền hơn 365,7 tỉ đồng.
Do số doanh nghiệp và cá nhân còn lại không có thông tin cụ thể nên không có căn cứ xác minh triệt để số lượng than mà 2 công ty đã bán ra, theo dữ liệu, tài liệu thu thập được và 2 công ty cung cấp.
Liên quan đến vụ án trên, VKSND tỉnh Bắc Giang đã truy tố 10 bị cáo. Trong đó, 6 bị cáo là lãnh đạo Công ty Khoáng sản Bắc Giang và Công ty Xuân An bị truy tố về các tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” và “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”; 4 bị cáo còn lại nguyên là cán bộ một số đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, cùng bị truy tố về tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng".