Thế nào là một Phật tử?
Thế nào là một Phật tử? Có nhiều cách nhìn nhận, tùy điểm nhìn, và từ đó, có nhiều định nghĩa. Mọi định nghĩa đều có tính tương đối. Phật tử hay không phải là Phật tử tùy thuộc vào tư duy, lời nói và hành động của mỗi cá nhân có Phật chất hay không.
Dưới đây là một trong những cách nhìn nhận của một người Phật tử hiện sống trong xã hội Tây phương, xin giới thiệu cùng độc giả.
Nhìn tổng quát về tín ngưỡng trên thế giới
Đối với Thiên Chúa giáo, tín đồ phải chịu phép rửa tội, ghi tên vào sổ sách và không được cải đạo. Đối với Hồi giáo thì khi sinh ra đương nhiên theo đạo của người cha. Đối với Ấn giáo, lúc sinh ra đời phải lệ thuộc ngay vào giai cấp bất di dịch của cha mẹ trong xã hội. Nhưng trên thực tế, không phải ai cũng tuân thủ và thực thi một cách trung thực và nghiêm chỉnh các giáo điều hay giáo lệnh thuộc tôn giáo của họ. Những con số thống kê về tín đồ các tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay chưa phản ảnh đúng thực tế, vì mỗi tôn giáo có một cách xác nhận tín đồ của mình khác nhau, đặc biệt là đối với đạo Phật.
Trên đây là tình trạng thật tổng quát về xu hướng tín ngưỡng chung trong các xã hội ngày nay. Một cách thiết thực và hạn hẹp hơn, có lẽ những người Phật giáo cũng nên nhìn vào trường hợp tín ngưỡng của mình để tự xác định những điều kiện nào có thể chứng minh một người “theo” Phật giáo đúng với ý nghĩa của nó, tức là một Phật tử đích thực. Thông thường, nghi lễ quy y là điều kiện tối thiểu để xác định một Phật tử. Quy y có nghĩa là nương tựa vào Phật, giáo pháp tức những lời giáo huấn của Đức Phật, và Tăng đoàn tức tập thể những người đạo hạnh hy sinh đời mình để tu tập trong mục đích hướng đến tự giác – giác tha.
Trong các nước Phật giáo Nam truyền, người ta quy y khá sớm, thông thường từ bảy tuổi trở lên, khi đứa trẻ bắt đầu hiểu được ý nghĩa những lời nguyện khi quy y. Quy y là một quyết tâm, cụ thể hóa bằng một nghi lễ, nhưng thật ra quyết tâm đó có hội đủ điều kiện để xác định một Phật tử hay chưa? Nếu nhìn xa hơn nữa, ta cũng có thể tự hỏi một người xuất gia, khoác lên người chiếc áo cà-sa, chọn một lối sống xa lìa thế tục, có đương nhiên hội đủ điều kiện để tự xem là một Phật tử chân chính hay không?
Lạm bàn về quy y
“Quy y” tiếng Phạn và tiếng Pāli gọi là sarana, nghĩa từ chương của chữ này là “điểm tựa”, “sự che chở”. Điểm tựa ấy và sự che chở ấy là Tam bảo (Triratna): Phật, Pháp và Tăng. Đối với tất cả các tông phái Phật giáo, quy y có nghĩa là bước vào con đường tu tập Phật pháp, hoặc bằng cách xuất gia hoặc có thể vẫn tiếp tục cuộc sống thế tục. Trên căn bản, quy y có nghĩa là tìm một điểm nương tựa để tránh khổ đau một cách rốt ráo và đạt được giác ngộ.
Thật ra quy y là một hành vi tự giải thoát cho chính mình khi ý thức được bản chất khổ đau của vòng luân hồi. Hành vi ấy mang tính cách hướng nội, vì thế, trước khi nhập diệt Đức Phật còn nhắc nhở các đệ tử của Ngài như sau: “Các con hãy nương tựa nơi chính các con”. Vì thế, nếu hiểu quy y là một sự nương tựa thì chủ yếu của sự nương tựa ấy phải là vị Phật trong tâm thức ta, noi theo Phật pháp mà ta đã chọn lựa, nhìn vào tấm gương của những người đã hy sinh đời mình để bảo vệ đạo pháp, để bước theo họ. Sự nương tựa ấy nhất định không mang tính cách tiêu cực. Tuy nhiên, theo Phật giáo Đại thừa thì chư Phật có thể giúp ta loại bỏ được mọi ảo giác, nhưng ta phải nỗ lực tu tập và noi theo những lời giáo huấn của chư Phật. Tịnh Độ tông chủ trương tha lực của Đức Phật A Di Đà để tái sinh được tiếp dẫn sang cõi Tây phương Cực lạc và phải hiểu rằng Tây phương Cực lạc không hiện hữu bên ngoài tâm thức ta. Nói chung sự tích cực trong việc tu tập là một đặc thù của Phật giáo.
Có lẽ mỗi người cũng nên nhìn vào trường hợp tín ngưỡng của mình để tự xác định những điều kiện nào có thể chứng minh một người “theo” Phật giáo đúng với ý nghĩa của nó, tức là một Phật tử đích thực.
Quy y Phật chính là nương tựa vào vị Phật đang trong tâm thức mỗi người, để tính Phật ngày càng hiển lộ trong suy nghĩ, lời nói và hành động của người Phật tử.
Đối với điểm tựa thứ hai là Phật pháp thì Đức Phật đã từng so sánh giáo pháp của Ngài như một chiếc bè dùng để qua sông, khi đến được bờ bên kia thì phải buông bỏ, không nên đội lên đầu mà đi.
Điểm nương tựa thứ ba là Tăng đoàn, gồm những người đại diện cho Phật và tượng trưng cho Phật pháp, họ là những con người sống thật, luôn luôn hiện diện bên cạnh ta, hoàn toàn hy sinh vì sự nghiệp giải thoát và sự an lành của chúng sinh.
Tóm lại, quy y tuy là một hành động, một quyết tâm, nhưng vẫn còn mang tính cách hình thức và nghi lễ, sự thực hiện và tu tập không được quy định cụ thể và rõ rệt, vì thế nếu chỉ trải qua nghi thức quy y không thôi thì chưa hội đủ những đặc tính cần thiết để xác nhận một người Phật tử đích thực. Là một Phật tử, phải nhận thức đúng về năm giới và nỗ lực thực hiện năm giới trong đời sống hàng ngày. Vậy ngũ giới là gì?
Về năm giới
Năm giới cấm là không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, không nghiện ngập, nhưng thật ra đấy chỉ là những gì tối thiểu và căn bản thuộc nền đạo đức chung của xã hội loài người, vì thế ngũ giới không hẳn là những đặc thù của Phật giáo. Khi ý thức được mối tương quan mật thiết giữa mình với môi trường sống, thì bất cứ ai cũng có thể nhận thấy ngũ giới là những điều đạo đức thật cần thiết để bảo vệ sự sống nói chung và xã hội con người nói riêng, không nhất thiết phải là một Phật tử mới biết giữ gìn những điều đạo đức căn bản ấy. Tuy nhiên, xã hội ngày nay đã khác hẳn với xã hội của hàng ngàn năm về trước, ta không thể phát biểu một cách khẳng định: “Tôi không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không sử dụng các chất gây nghiện...”.
Tuy không sát sinh, nhưng ta vẫn hiểu rằng một phần tiền thuế mà ta đóng góp sẽ dùng vào việc chế tạo vũ khí hay mua vũ khí. Dù cho ta không trộm cắp, nhưng ta vẫn gián tiếp chấp nhận các nước giàu có bóc lột các nước đang phát triển qua hệ thống ngân hàng quốc tế, dựa trên nguyên tắc kinh doanh toàn cầu. Ta vẫn chấp nhận và tham gia vào việc tiêu dùng quá độ để giúp kinh tế “phát triển”, mặc dù sự tiêu dùng đó là một cách khai thác nhân lực và tài nguyên của các nước đang phát triển, đưa các quốc gia này ngày càng lún sâu vào khó khăn và nghèo đói, đồng thời góp phần vào sự hủy hoại môi sinh của cả hành tinh này.
Giới luật không nói dối lại còn khó tuân thủ hơn nữa khi ta sống trong những xã hội chi phối bởi sức mạnh của quảng cáo và tuyên truyền, sử dụng những ngôn từ lắt léo, tinh vi và tận dụng những kỹ thuật truyền tin hiện đại. Hành vi tà dâm trong các xã hội ngày nay cũng đã biến dạng thành những hình thức tinh tế. Con người không những say sưa vì rượu chè hay ma túy, mà còn bị mê hoặc bởi những hình thức kích động bản năng, bởi những lời tuyên truyền xúi giục mang tính cách cực đoan, sẵn sàng tự sát trong mục đích giết hại và gây ra tang tóc, thì hậu quả sẽ còn tệ hại hơn nhiều so với rượu chè be bét.
Trong các xã hội sơ khai từ ngàn xưa, vô minh và khổ đau có vẻ đơn giản, nhưng ngày nay tổ chức xã hội đã trở nên tinh vi hơn nhiều, do đó vô minh và khổ đau cũng trở nên phức tạp hơn, được ngụy trang khéo léo hơn, trở nên khó nhận biết hơn. Nhiều hệ thống xã hội được sáng chế và hình thành để quản lý con người bằng sự giả dối. Kỹ nghệ, kinh tế và chính trị lợi dụng những hình thức văn hóa và nghệ thuật để khai thác những xung năng tiềm ẩn của các tập thể con người trong xã hội, nhắm vào những chủ đích riêng tư.
Vậy phải định nghĩa một Phật tử như thế nào?
Phật giáo tại một vài quốc gia Á châu mang nặng khía cạnh tôn giáo, do đó tầm quan trọng trong mục đích giải thoát bằng trí tuệ của Phật pháp đôi khi không được quan tâm đúng mức. Người Tây phương lại chú trọng nhiều hơn đến các khía cạnh triết học và khoa học của Phật pháp, và cũng vì thế mà có thể đã đánh mất đi ít nhiều tính chất thiêng liêng của một tôn giáo. Phật tử Tây Tạng và sau đó là các Phật tử Tây phương quan tâm nhiều hơn đến một khái niệm mà các Phật tử trong vài quốc gia Á châu tương đối ít chú ý đến, ấy là khái niệm về “bốn dấu ấn”.
Phật giáo tại một vài quốc gia châu Á nặng khía cạnh tôn giáo, hoạt động tín ngưỡng, do đó mục đích giải thoát bằng trí tuệ đôi khi không được quan tâm đúng mức. Người Tây phương lại chú trọng nhiều hơn đến các khía cạnh triết học và khoa học thực nghiệm của Phật pháp, và cũng vì thế mà có thể đã đánh mất đi ít nhiều tính chất thiêng liêng của một tôn giáo.
Thỉnh thoảng Đức Dalai Lama có nói đến ý nghĩa của bốn dấu ấn trong các sách của ngài, nhưng gần đây hơn một vị Lama Tây Tạng là Dzongsar Khyentse Rinpoché cho xuất bản một quyển sách trình bày về bốn dấu ấn trong Phật giáo. Ông sinh năm 1961 tại Bhutan, và khi lên bảy tuổi đã được xác nhận là hóa thân lần thứ ba của một vị Đại sư Tây Tạng thuộc thế kỷ XIX, người sáng lập ra chi phái Khyentse thuộc phái Ninh-mã (Nyingmapa). Quyển sách mang tựa đề là Không phải ai theo Phật giáo cũng là một Phật tử. Bài viết ngắn này được gợi ý từ quyển sách trên đây. Nói chung, nhiều kinh sách bằng ngôn ngữ Tây phương cũng thường đề cập đến bốn dấu ấn của hiện hữu trong Phật giáo.
Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/the-nao-la-mot-phat-tu-post77864.html











