Thay đổi tư duy để phát triển Đồng bằng sông Cửu Long thịnh vượng

Thay đổi để thích ứng với biến đổi khí hậu là xu thế chung của toàn cầu, trong đó, có sự dịch chuyển chính sách về mô hình tăng trưởng, điều chỉnh định hướng phát triển, đưa ra cách tiếp cận mới về tăng trưởng kinh tế, quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.

Nhìn nhận thấu đáo điều đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) - (Nghị quyết 120). Đây là quyết sách lớn, mang tầm thời đại của Đảng và Nhà nước hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và tạo bước chuyển lịch sử của vùng châu thổ lớn nhất toàn quốc.

Đô thị Mỹ Tho - Ảnh: Minh Nhựt

Đô thị Mỹ Tho - Ảnh: Minh Nhựt

Nền tảng vững chắc

BĐKH và nước biển dâng, nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ,… tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của vùng ĐBSCL. Trước những thách thức lớn đó, năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức Hội nghị về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH với tầm nhìn xây dựng đồng bằng phát triển bền vững, thịnh vượng, gắn kết chặt chẽ với các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước và tiểu vùng sông Mê Kông, trên cơ sở chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và của từng lĩnh vực nói riêng, vừa bảo đảm kế thừa những thành tựu phát triển trước đây, truyền thống văn hóa quý báu, kết hợp áp dụng khoa học, công nghệ hiện đại của thế giới phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, biến đổi khí hậu không phải là nguy cơ mà chỉ là thách thức. "Người ta nói là ĐBSCL sắp mất trong khoảng 50 - 70 năm nữa, trong khi nhiều đồng bằng khác ở nhiều nước cũng bị tình trạng như nước ta, họ đã vượt lên, làm giàu hơn. Đó có phải là thực tiễn đối với Việt Nam không?" - Thủ tướng đặt vấn đề. Theo Thủ tướng, chúng ta không nên hoảng hốt mà cần tìm lối đi, cách làm tốt nhất, khoa học nhất, phù hợp nhất; trong đó, đổi mới tư duy, hành động của hệ thống chính trị và người dân nhằm giúp gần 20 triệu dân ĐBSCL cùng vượt qua thách thức.

Thông điệp của Thủ tướng Chính phủ là nguồn động lực mạnh mẽ huy động sức mạnh tổng hợp toàn xã hội chung tay hành động ứng phó, biến những tác động bất lợi của BĐKH thành cơ hội phát triển bền vững đất nước.

Đầu tư hạ tầng giao thông ĐBSCL để tạo sự phát triển liên vùng - Ảnh: Bùi Việt Dũng

Để tạo bước chuyển mang tính đột phá toàn diện, sau Hội nghị, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120 và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình Hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết. Đây là cơ sở để các Bộ, ngành, địa phương cùng với các đối tác phát triển, tổ chức quốc tế chung tay phát triển bền vững vùng ĐBSCL.

Bộ TN&MT cho biết, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết 120, đến nay, hệ thống cơ chế, chính sách được hoàn thiện, bổ sung tập trung thúc đẩy phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững, an toàn, hạ tầng giao thông, phát triển đô thị ổn định dân cư; lồng ghép yếu tố BĐKH.

Để tạo chuyển biến hơn nữa trong hành động, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; góp phần thu hút các doanh nghiệp đầu tư mạnh vào nông nghiệp, tăng cường liên kết 4 nhà (nhà quản lý, nhà đầu tư, nhà khoa học và nhà nông) để nâng cao chuỗi giá trị, tạo chỗ đứng cho các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới.

Chưa dừng lại ở đó, ĐBSCL tiếp tục nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, quyết liệt của người đứng đầu Chính phủ khi phê duyệt nhiều đề án, quy hoạch phục vụ phát triển bền vững , thích ứng với BĐKH như: Phê duyệt điều chỉnh, bổ sung một số cơ chế, chính sách thuộc Chương trình Xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ ĐBSCL giai đoạn 2018 - 2020 để đầu tư xây dựng bổ sung các cụm, tuyến dân cư, đắp bờ bao khu dân cư có sẵn cho 8 tỉnh: Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang và TP. Cần Thơ; phê duyệt Đề án phát triển vật liệu xây dựng phục vụ xây dựng các công trình biển đảo đến năm 2025 tại Quyết định số 126/QĐ-TTg ngày 25/1/2019, trong đó, đã nghiên cứu, đề xuất tổng thể cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển, sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng cho các công trình ven biển và hải đảo.

Người dân luôn thích ứng với BĐKH - Ảnh: Việt Dũng

Cùng với đó, các Bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền đã rà soát, xây dựng, ban hành các cơ chế phát triển bền vững ĐBSCL bao gồm: Đánh giá, xây dựng cơ chế chính sách ưu tiên khuyến khích đầu tư tư nhân cho các hoạt động thích ứng với BĐKH vùng ĐBSCL giai đoạn 2016 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2025; cơ chế thí điểm điều phối vùng theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế điều phối, phát triển vùng ĐBSCL theo hướng thành lập tổ chức điều phối vùng ĐBSCL, tạo sức mạnh tổng hợp, liên kết chuỗi chặt chẽ nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của vùng; cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ cho nền kinh tế nông nghiệp, công nghiệp chế biến các sản phẩm nông sản, nhất là chế biến sâu, chế biến tinh; cơ chế chính sách hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại; lồng ghép ứng phó với BĐKH trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật như quy định về chỉ tiêu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh, lồng ghép các yếu tố BĐKH và nước biển dâng vào quy hoạch giao thông vận tải đường thủy nội địa; cập nhật yếu tố BĐKH vào Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải; hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, đã thành lập các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Hậu Giang, Phú Yên, Bạc Liêu (phát triển ngành tôm).

Hiện nay, chúng ta đang nghiên cứu xây dựng và sẽ tiếp tục ban hành một số cơ chế, chính sách như: Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với BĐKH gắn với xây dựng nông thôn mới vùng ĐBSCL; cơ chế chính sách tập trung, tích tụ đất đai phục vụ sản xuất quy mô lớn; chính sách quản lý tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường; Nghị định của Chính phủ về chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo vùng ĐBSCL.

Phát triển nông nghiệp thích ứng với BĐKH - Ảnh: Giang Hà

Chủ động ứng phó BĐKH

BĐKH đã và đang tác động mạnh mẽ đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL. Nhiều giải pháp ứng phó với BĐKH đã được nhiều Bộ, ngành, địa phương rốt ráo triển khai. Riêng với Bộ TN&MT, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết 120, Bộ đã tăng cường công tác điều tra cơ bản, quan trắc; số liệu, dữ liệu liên ngành được thiết lập, cập nhật và hệ thống hóa.

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của toàn ngành TN&MT, hiện, chúng ta đã rà soát số liệu điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường, cập nhật dữ liệu khí tượng, thủy văn, hải văn và bùn cát vùng ĐBSCL, dữ liệu về tài nguyên nước; hoàn thành và đưa vào sử dụng Trạm vùng Quan trắc môi trường Tây Nam Bộ; đang khẩn trương xây dựng Trung tâm Tích hợp dữ liệu vùng ĐBSCL làm cơ sở cho việc tích hợp dữ liệu của các Bộ, ngành, địa phương. Xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai. Hoàn thành điều tra, cập nhật dữ liệu tài nguyên môi trường, đa dạng sinh học khu vực bán đảo Cà Mau năm 2018, hiện đang tiến hành đối với khu vực Tứ giác Long Xuyên năm 2019. Hoàn thành Dự án Điều tra, đánh giá hiện trạng dự báo tai biến xói, sạt lở phục vụ công tác quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường dải ven biển từ Tiền Giang đến Kiên Giang.

Chúng ta đã triển khai điều tra, đánh giá địa động lực hiện đại để hoàn thiện kịch bản BĐKH và đề xuất giải pháp thích ứng ở ĐBSCL; khảo sát, đánh giá về sụt lún đất ở ĐBSCL, đo kiểm tra các mốc cao độ hạng Nhà nước khu vực Nam Bộ, nghiên cứu sụt lún đất ở bán đảo Cà Mau; nghiên cứu khảo sát, đánh giá một số nguyên nhân sạt lở bờ sông, bờ biển ĐBSCL, đề xuất các giải pháp phòng chống sạt lở ở ĐBSCL, đặc biệt, đối với các điểm sạt lở cấp bách, nguy hiểm. Xây dựng bản đồ ngập lũ năm 2018 vùng ĐBSCL.

Các địa phương đã thực hiện các nhiệm vụ điều tra, khảo sát, cảnh báo, dự báo trong lĩnh vực môi trường, ứng phó với BĐKH phục vụ phát triển kinh tế - xã hội (Hậu Giang xây dựng bản đồ số xâm nhập mặn; khảo sát, đánh giá chế độ thủy văn, địa hình đáy, địa chất ven sông, kênh chính trên địa bàn tỉnh có nguy cơ sạt lở, xây dựng cơ sở dữ liệu và mô hình cảnh báo sạt lở giai đoạn 2018 - 2025; Long An đã thực hiện khảo sát, đánh giá hiện trạng các nguồn khí thải ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp, hiện trạng môi trường khu vực cụm, tuyến dân cư nông thôn và xây dựng mạng lưới quan trắc tài nguyên nước dưới đất...); chuyển giao 13/13 tỉnh, thành phố cơ sở dữ liệu cung cầu lao động.

Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nguy cơ sạt lở - Ảnh: Bửu Đấu

Vùng ĐBSCL hiện đang bị sụt lún nghiêm trọng, cùng với việc mực nước biển đang dâng cao. Nhận diện rõ những thách thức đó, những năm qua, công tác phòng chống, khắc phục sụt lún, sạt lở bờ sông, bờ biển được nước ta quan tâm.

Theo thống kê, vùng ĐBSCL hiện có 564 điểm sạt lở với tổng chiều dài trên 834 km, trong đó, 57 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm (sạt lở gây nguy hiểm trực tiếp đến khu tập trung dân cư và cơ sở hạ tầng quan trọng) tổng chiều dài 170 km (riêng bờ sông có 39 điểm với tổng chiều dài 85 km, bờ biển có 18 điểm với tổng chiều dài 85 km).

Để ứng phó với tình trạng này, Bộ TN&MT đã và đang tăng cường mạng lưới quan trắc, giám sát các yếu tố khí tượng thủy văn, hải văn, biến động bùn cát; tiến hành xây dựng và tích hợp thông tin mạng lưới đo mưa tự động phục vụ công tác dự báo, cảnh báo thiên tai. Ngoài mạng lưới trạm khí tượng thủy văn cơ bản gồm 98 trạm khí tượng, 145 điểm đo mưa, 139 trạm thủy văn, 6 trạm hải văn, khu vực Nam Bộ hiện nay đã được đầu tư 154 điểm đo mưa, mực nước tự động, đo mặn.

Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH và Chương trình Hỗ trợ ứng phó với BĐKH hỗ trợ 28 dự án (8 dự án liên quan đến xây dựng đê biển, đê sông ở những khu vực xung yếu, 20 dự án liên quan đến trồng, phục hồi rừng ngập mặn ven biển). Chương trình Mục tiêu ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh hỗ trợ 20 dự án với số kinh phí 3.700 tỷ đồng đã được Thủ tướng Chính phủ giao vốn trung hạn.

Triển khai các hoạt động xử lý sạt lở cấp bách bờ sông, bờ biển, hướng dẫn thực hiện các giải pháp kỹ thuật, xử lý khẩn cấp những đoạn sụt lún, sạt lở trọng điểm; chỉ đạo cắm biển cảnh báo, xây dựng bản đồ sạt lở vùng ĐBSCL, bố trí ngân sách xây dựng công trình phòng chống sạt lở, ưu tiên 36 dự án xử lý cấp bách với tổng kinh phí là 2.500 tỷ đồng.

Tương lai tươi sáng

Tầm nhìn của Nghị quyết 120 là đến năm 2100 sẽ đưa ĐBSCL phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng, trên cơ sở phát triển phù hợp nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao, kết hợp với dịch vụ, du lịch sinh thái, công nghiệp, trọng tâm là công nghiệp chế biến, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.

Nghị quyết lần này đã đưa ra chiến lược dài hơi cho đồng bằng theo hướng thích ứng “thuận thiên”, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào thiên nhiên; chuyển tư duy nông nghiệp từ “tăng gia sản xuất” sang làm “kinh tế nông nghiệp” chú trọng chất lượng, hiệu quả kinh tế.

Ngoài việc quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp theo vùng, theo quy mô liên kết vùng trên cơ sở gắn với cung - cầu thị trường, tái cấu trúc nông nghiệp phải theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Cụ thể là quá trình tái cơ cấu phải chú trọng đến việc đổi mới cơ chế, chính sách nhằm đảm bảo tính hài hòa trong việc phân chia lợi ích giữa các khâu trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Vấn đề quan trọng khác là tập trung cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, tạo các giống có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh các công nghệ mới vào tất cả các khâu: sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, gắn với đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, khuyến khích nông dân khởi nghiệp cùng với nâng cao tri thức kinh doanh nông nghiệp cho nông dân.

Với nỗ lực của Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền các địa phương trong cải thiện môi trường đầu tư, vùng ĐBSCL đã thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư và đạt mức tăng trưởng GDP ấn tượng. Chính phủ đã triển khai nhiều cơ chế, giải pháp xúc tiến đầu tư, mở rộng thị trường, ngành hàng. Triển khai nhiều chính sách tín dụng đối với ngành lúa gạo, khuyến khích sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết ứng dụng công nghệ cao.

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng thủy sản, trái cây, giảm lúa; từng bước hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, chuyên canh nông sản chủ lực (tôm, cá tra, lúa gạo, trái cây) gắn với công nghệ chế biến, tiêu thụ theo chuỗi giá trị nông sản. Tăng trưởng GDP của vùng ĐBSCL năm 2018, đạt mức ấn tượng là 7,8%, cao nhất trong 4 năm trở lại đây (tăng trưởng GDP cả nước là 7,08%). Kim ngạch xuất khẩu toàn vùng lần đầu tiên đạt 15,7 tỷ USD.

Đáng chú ý, năm 2018, sản lượng tôm đạt 0,623 triệu tấn, chiếm 70% sản lượng cả nước; sản lượng cá tra 1,41 triệu tấn, chiếm 95%; sản lượng trái cây 4,3 triệu tấn, chiếm 60%, sản lượng lúa 24,5 triệu tấn, chiếm 56% sản lượng cả nước. Kim ngạch xuất khẩu các nông sản chủ lực (gạo, cá tra, tôm, trái cây) đạt 8,43 tỷ USD, chiếm 73,34% kim ngạch xuất khẩu các nông sản chủ lực này của cả nước. Một số sản phẩm nông sản xuất khẩu có giá trị cao như thanh long, sản phẩm xuất khẩu chủ lực với kim ngạch 1,1 tỷ USD năm 2018; trái xoài (Hòa Lộc, Cát Chu) xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc; thanh long, nhãn, vú sữa, chôm chôm đã xuất khẩu vào thị trường Mỹ với sản lượng tăng hàng năm.

Vùng ĐBSCL đã hình thành nhiều vùng sản xuất rau quả tập trung theo các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt, đạt năng suất 17 tấn/ha và sản lượng 4.400 tấn/năm. Diện mạo nông thôn được khởi sắc, có nhiều đổi mới. Tính đến hết tháng 4/2019, toàn vùng có 516 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 40,09%), bình quân đạt 15,43 tiêu chí/xã (mức bình quân chung của cả nước là 15,26 tiêu chí/xã).

Kế hoạch tái cơ cấu ngành công nghiệp bước đầu triển khai đúng hướng và hiệu quả, tập trung vào phát triển công nghiệp xanh, ít phát thải, nâng cao giá trị của sản phẩm nông nghiệp thông qua thúc đẩy công nghiệp chế biến. Thông qua đó, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của vùng liên tục tăng cao so với mức tăng trung bình cả nước (lần lượt trong các năm 2016, 2017, 2018 là 8,41%, 11,12% và 11,3% so với cả nước là 7,4%, 9,5% và 10,2%). Công nghiệp chế biến thủy sản tiếp tục chiếm tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng cao nhất với các sản phẩm chủ yếu là cá tra phi lê, tôm đông lạnh, mực đông lạnh. Chế biến lúa gạo đóng góp hơn 50% sản lượng lúa và 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước, đạt kim ngạch xuất khẩu năm 2018 là 3,06 tỷ USD với 6,1 triệu tấn.

Tập trung khai thác tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo, trước hết là năng lượng gió và năng lượng mặt trời như: Nhà máy điện gió Bạc Liêu 1 và 2 đã hoàn thành, khởi công các nhà máy điện gió: Bạc Liêu 3, Khai Long - Cà Mau, Hàn Quốc - Trà Vinh, Bình Đại - Bến Tre… Các dự án điện gió và năng lượng tái tạo ở đồng bằng đang đứng trước cơ hội phát triển khi công nghiệp phát triển nhanh, chi phí đầu tư giảm mạnh.

Nhiều địa phương đã chủ động triển khai một số mô hình kinh tế phù hợp với tự nhiên, ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với BĐKH như mô hình nuôi tôm bền vững; chọn tạo, phát triển các giống cây trồng, vật nuôi và giống thủy sản có tiềm năng, lợi thế của vùng; nâng cao chất lượng giống; mô hình “Sinh kế thích ứng với BĐKH”, “Nước sạch và môi trường” của tỉnh Sóc Trăng; mô hình tòa nhà công sở sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, đầu tư hệ thống điện năng lượng mặt trời tại tỉnh Vĩnh Long…

Cuộc sống thường ngày của người dân ĐBSCL- Ảnh: Bùi Việt Dũng

***

Với dấu ấn đạt được sau 2 năm triển khai Nghị quyết 120 một lần nữa khẳng định, phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH nhận được sự quan tâm lớn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Nghị quyết 120 rất phù hợp với bối cảnh và xu thế phát triển của ĐBSCL trước những thách thức to lớn của biến đổi khí hậu; đã kế thừa, tích hợp kết quả của các chương trình khoa học công nghệ, các dự án đã và đang triển khai thực hiện trong những năm qua.

Sự chủ động của các Bộ, ngành, địa phương với quyết tâm chính trị cao, sự ủng hộ, đồng tình của người dân, sự tham gia nhiệt huyết, tích cực của các chuyên gia trong và ngoài nước trên cơ sở sáng tạo, tri thức bản địa và sự vươn lên mạnh mẽ của người dân để chuyển hóa các thách thức thành cơ hội phát triển mới. Đồng thời, sự tham gia mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chuỗi giá trị, tạo xung lực về vốn cho phát triển ĐBSCL.

Chúng ta hoàn toàn tin tưởng về một diện mạo tương lai tươi sáng của ĐBSCL.

Phương Anh

Nguồn TNMT: http://baotainguyenmoitruong.vn/phat-trien-ben-vung-dbscl/thay-doi-tu-duy-de-phat-trien-dong-bang-song-cuu-long-thinh-vuong-1270666.html