Tháng 'cô hồn' hay tháng Bảy mùa Vu lan?

Phật giáo coi tháng 7 là mùa báo hiếu của con,cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.

Nhiều người trong chúng ta vẫn hiểu sai về tháng 7 Âm Lịch và cho rằng tháng Cô Hồn/ Xá Tội Vong Nhân/ Mở Cửa Ngục...nên kiêng cữ không làm việc gì vì đen đủi, xui xẻo. Xảy ra chuyện gì cũng đổ tại là tháng Cô hồn!

Còn Phật giáo coi tháng 7 là mùa báo hiếu của con,cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.

Kinh Vu lan chép rằng "Vào thời đức Phật Thích Ca còn tại thế, đệ tử thứ 4 của Ngài là Mục Kiền Liên, sau khi giác ngộ Phật pháp đã đặng lục thông chứng quả ngôi Bồ Tát. Ngài Mục Kiền Liên nhớ đến Mẹ mình (là bà Thanh Đề) đã dầy công chăm sóc và nuôi dưỡng nên tìm mẹ để báo đáp công ơn.

Ngài dùng huệ nhãn để tìm kiếm mẹ khắp nơi, bất chợt Ngài thấy mẹ mình bị đày vào Địa ngục sinh làm ngã quỷ, không cơm ăn áo mặc, thân hình tiều tụy! Mục Kiền Liên thấy mẹ như vậy thương xót vô cùng, Ngài dùng những phẩm vật dâng lên mẹ để bù đắp lại cho mẹ những ngày đói khát!"

Ảnh minh họa.

Cũng theo Kinh Vu Lan, vì nghiệp báo và tính bỏn xẻn từ kiếp trước của bà Thanh Đề chưa hết, nên khi đưa cơm lên miệng để ăn bà Thanh Đề vẫn sợ những ngã quỷ khác cướp mất, nên vội vàng tay bốc ăn tay che đậy.

Khi đó những phẩm vật ngon lành Mục Kiền Liên dâng mẹ bị hóa thành những hòn than lửa nóng rực khiến bà Thanh Đề không thể nào nuốt được!!! Ruột đau từng khúc, nước mắt tuôn rơi, Mục Kiền Liên vội quay về gặp Thế Tôn trình bày cơ sự và mong muốn đức Phật chỉ dạy làm thế nào cứu được mẹ mình.

Đức Thế Tôn với lòng từ bi rộng lớn đã chỉ bảo Mục Kiền Liên cho dù đã chứng ngôi Bồ Tát và với lòng hiếu thảo hoặc nhờ vào những thần lực nào đi nữa cũng không thể cứu mẹ được mà phải chọn ngày 15 tháng Bảy âm lịch là ngày Tự Tứ, sửa soạn cơm canh, nhang đèn, hoa trái và nơi nghỉ ngơi rồi thành kính cung thỉnh chư Tăng và nhờ thần lực chú nguyện của chư Tăng mới có thể giúp mẹ ông thoát khỏi nạn ngã quỷ....... và mùa Vu Lan ra đời từ đó.

Kinh "Báo Hiếu Phụ Mẫu" chép rằng: "Vào thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, khi ngài dẫn Tăng đoàn gồm chư Tăng và các hàng Bồ Tát.....trên đường đi về phương Nam thuyết giảng, khi đến con đường phía trước Ngài nhìn thấy một núi xương khô, liền bước đến quỳ lạy 3 lạy và khóc! Các đệ tử của Ngài rất lấy làm ngạc nhiên không hiểu vì sao Ngài là bậc Từ Phụ khắp ba phương, bốn loài mà lại đi lạy đống xương khô? Ngài A Nan Tôn giả liền đem thắc mắc của mình đến bạch Phật và hỏi rõ nguyên do?!

Vì thương xót chúng sinh nên Đức Phật đã nói cho các đệ tử được thông tỏ. Trong đống xương đó chất chứa rất nhiều hài cốt, có thể đó là xương cốt của Cha, Mẹ, Ông, Bà hoặc những đứa con của mình được sinh ra...nằm dầm mưa, dãi nắng nhìn thật là đau xót!

Đức Phật bèn bảo Tôn giả A Nan nhặt và chia số xương đó ra làm hai để phân biệt Nam và Nữ. Ngài A Nan rất lúng túng không lam sao phân biệt được vì những hình hài lúc sống dễ phân biệt Nam hay Nữ, nhưng khi đã mất đi còn lại xương cốt không thể nào phân biệt Nữ hay Nam.

Ngài A Nan bạch Phật những thắc mắc đó và nhờ Đức Phật chỉ dạy Đức Phật từ bi đã vì thương xót chúng sinh nên nói cho A Nan và Tăng đoàn biết cách phân biệt cốt hài: Đàn ông xương nặng dễ nhận biết, còn Đàn bà vì mang nặng đẻ đau, chịu khổ cơ cực trăm bề, lúc sinh nở mất nhiều khí huyết nên xương đen và nhẹ hơn đàn ông.

Đàn bà từ khi thai nghén đã chịu nhiều cơ cực, nâng niu chăm sóc con, nhịn ăn, nhịn mặc nuôi con, nằm phần ướt nhường con nơi khô ráo, quan tâm từng bữa ăn, giấc ngủ. Lúc con lớn lên,làm việc không quản mưa nắng để lo lắng cho con học hành, công việc, đến tuổi trưởng thành lo dựng vợ, gả chồng cho con.

Vậy mà! nhiều lúc chúng con đã không nhớ đến sự hy sinh lớn lao của cha - mẹ, lúc thanh niên thì ăn chơi, không lo học hành để cha buồn, mẹ lo. Cha, mẹ có trách mắng thì cãi lại. Lúc trưởng thành chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân mà không nhớ đến cha, mẹ. Con trai đến lúc lấy vợ, có con rồi sao nhãng việc quan tâm, thăm nom cha, mẹ. Con gái khi lấy chồng thì lúc đầu còn lui tới thăm nom, sau dần sao nhãng bổn phận và trách nhiệm làm con.

Công đức của cha, mẹ không làm sao kể hết được, chúng ta dù có gánh cha, mẹ hai bên trèo lên núi cao,vực sâu, thịt nát xương tan, dù khoét đi đôi mắt của mình, dù lấy dao nhọn đâm vào khắp thân mình, dù treo thân mình làm đèn cúng Phật....cũng không sao báo đáp ơn sinh thành....

Câu ca dao chúng ta được nghe từ lúc còn ẵm ngửa qua lời ru ngọt ngào của mẹ. Chín tháng mười ngày mẹ gìn giữ, chăm chút bào thai, lúc sinh nở mẹ chịu nỗi đau thân thể nhưng vui mừng khi chúng ta chào đời. Mẹ nhịn ăn chịu đói để nhường chúng ta đủ bữa, mẹ chịu rét cho chúng ta ấm áp mùa đông. Gió quạt mát từ tay mẹ xua đi cái oi ả mùa hè, chỗ ướt mẹ nằm nhường chúng ta nơi khô ráo, câu nói đầu đời ta gọi là hai tiếng Mẹ ơi?

Những bước chân chập chững chúng ta được cha dìu dắt, nhân nghĩa ở đời cha dậy bảo cho ta, tuổi thơ với những trò nghịch ngợm cha nhẹ nhàng khuyên nhủ, những roi vọt của cha mỗi khi chúng ta hư, nhưng lại uốn nắn một đời người.

Nhân mùa Vu Lan báo hiếu 2018 - Phật lịch 2562 xin cài lên áo những ai mẹ còn cha mất - đóa hoa hồng nơ trắng, những ai mẹ mất cha còn - hoa trắng nơ xanh, xin chia sẻ với những ai đã mất cả cha và mẹ - đóa hoa trắng nơ trắng, xin chúc mừng cho những người hàng ngày vẫn được gọi hai tiếng mẹ và cha - xin được tặng đóa hoa hồng nơ xanh.

Còn tôi, tôi sẽ cài lên áo mình đóa hoa hồng nơ trắng, bóng nắng chiều Thu mãi in đậm trong tôi bóng hình người Cha kính yêu đã 26 năm đã về miền Cực Lạc.

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT MA HA TÁT.

Nguyên Phước - Nguyễn Tiến Lộc

Nguồn Pháp Luật Plus: http://phapluatplus.vn/thang-co-hon-hay-thang-bay-mua-vu-lan-d75673.html