Tên lửa Hồng Kỳ-16 phải chăng là phiên bản Buk kiểu Trung Quốc?

Gần đây Quân đội Trung Quốc đưa vào biên chế tên lửa phòng không tầm trung Hồng Kỳ-16 (HQ-16), do Tập đoàn Khoa học kỹ thuật vũ trụ Trung Quốc (CASC) nghiên cứu chế tạo; tuy nhiên giới quân sự nghi ngờ HQ-16 là bản sao tên lửa phòng không lục quân Buk nổi tiếng của Nga.

Theo tạp chí “Kỹ thuật và vũ khí” Nga, sở dĩ Trung Quốc nghiên cứu phát triển được loại tên lửa HQ-16 có quy cách và tính năng tương tự như tên lửa Buk của Nga, là do năm 1997, Nga đã bán cho Trung 2 tàu khu trục 956 lớp Sovremenny cùng hệ thống vũ khí đi kèm; trong đó có hệ thống tên lửa phòng không Shtil (phiên bản của Buk trên tàu hải quân) trang bị trên tàu.

Theo tạp chí “Kỹ thuật và vũ khí” Nga, sở dĩ Trung Quốc nghiên cứu phát triển được loại tên lửa HQ-16 có quy cách và tính năng tương tự như tên lửa Buk của Nga, là do năm 1997, Nga đã bán cho Trung 2 tàu khu trục 956 lớp Sovremenny cùng hệ thống vũ khí đi kèm; trong đó có hệ thống tên lửa phòng không Shtil (phiên bản của Buk trên tàu hải quân) trang bị trên tàu.

Rất nhanh chóng, loại vũ khí này được Cục thiết kế Ngưu Lang Tinh và Cách Tân phối hợp nghiên cứu, bắt đầu từ tháng 7/1999, năm 2009 chính thức công khai hóa trong lễ duyệt binh mừng quốc khánh; năm 2012 được đưa ra giới thiệu lần đầu tại Triển lãm hàng không Chu Hải.

Do Trung Quốc không được tiếp cận đồng bộ với hệ thống tên lửa Buk, nên đơn vị tác chiến tiêu chuẩn của HQ-16 cũng khác với đơn vị tên lửa Buk nguyên bản. Hệ thống nguyên bản Buk bao gồm 1 xe radar trinh sát mục tiêu, 1 xe chỉ huy và 3 đến 4 xe radar điều khiển hỏa lực kiêm xe phóng. Ngoài ra, mỗi đại đội có thể có từ 2 đến 3 xe chở đạn kiêm xe phóng.

Hệ thống HQ-16 cũng bao gồm một xe radar trinh sát mục tiêu, 1 xe chỉ huy, nhưng chỉ có 1 xe radar điều khiển hỏa lực, xe phóng được tách riêng và không có xe chở đạn kiêm xe phóng như của Buk.

Lý giải về điều này, các chuyên gia quân sự cho rằng, hệ thống Buk là hệ thống phòng không lục quân dã chiến, được tăng cường hoặc phối thuộc cho các sư đoàn cơ giới của Liên Xô (trước đây) và Nga ngày nay. Ảnh: Hệ thống phòng không Buk-M3.

Trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, Liên Xô đã rút ra bài học kinh nghiệm từ những cuộc chiến tranh Trung Đông, nếu chỉ có radar điều khiển hỏa lực hoặc radar tìm bắt mục tiêu đơn nhất, sẽ khó đảm bảo khả năng tác chiến liên tục của toàn bộ hệ thống tên lửa đất đối không, nếu radar hệ thống bị phá hủy, tất cả các nhánh hệ thống sẽ bị tê liệt. Ảnh: Xe phóng kiêm radar điều khiến hỏa lực của hệ thống Buk.

Từ kinh nghiệm của cuộc chiến tại Trung Đông, khi thiết kế hệ thống tên lửa Buk, các nhà thiết kế Liên Xô mới bố trí riêng cho mỗi xe phóng đạn được phối thuộc 1 radar điều khiển hỏa lực và họ hết sức nhấn mạnh đến thiết kế dự phòng; nếu trong điều kiện bị chia cắt, mỗi đại đội hỏa lực Buk có thể trở thành một đơn vị chiến đấu độc lập.

Đối với Hồng Kỳ-16, tất cả thiết kế đều tiếp cận Hồng Kỳ-9 của không quân, khái niệm thiết kế gần với phòng không khu vực, chứ không phải dùng cho phòng không dã chiến lục quân. Với hệ thống Buk của Nga, không cần chuẩn bị trận địa trước; nó có thể “dừng bắn không chuẩn bị trước” (với phiên bản cũ) hoặc “vừa chạy vừa bắn” (đối với phiên bản Buk-2M). Ảnh: Hệ thống phòng không Buk.

Còn hệ thống HQ-16, các trận địa bắn đều phải được chuẩn bị trước; tuy HQ-16 quảng cáo có hệ thống radar điều khiển hỏa lực với tính năng ưu việt, nhưng một khi radar này bị phá hủy, toàn bộ hệ thống sẽ bị tê liệt; các đại đội hỏa lực không thể chiến đấu độc lập được vì không có radar điều khiển hỏa lực.

Ngoài ra, xe tiếp đạn của HQ-16 cũng không có khả năng phóng đạn. Hiển nhiên, trong lĩnh vực phòng không dã chiến, Trung Quốc còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn chiến đấu và không đưa được vào trong thiết kế vũ khí như của Nga; có thể coi đây là điểm trừ của HQ-16 so với Buk.

Xe phóng tên lửa HQ-16 chở sẵn 6 quả đạn, thời gian chuyển từ trạng thái hành quân sang chiến đấu (phóng quả đạn đầu tiên) mất 12 đến 14 phút; trong đó không bao gồm thời gian tìm bắt mục tiêu, vì việc xác định mục tiêu chủ yếu do xe radar và xe chỉ huy phụ trách, mỗi quả đạn phóng cách nhau 3 giây, thời gian phóng hết cơ số đạn từ 25 đến 30 giây.

Về những khác biệt cụ thể giữa HQ-16 so với Buk, Trung Quốc nhấn mạnh tính năng radar HQ-16 tốt hơn so với hệ thống Buk. Ở bộ phận radar tìm bắt mục tiêu, Buk sử dụng loại radar 9S18, cự ly tối đa tìm bắt mục tiêu là 160km; xe chỉ huy điều khiển có thể đồng thời xử lý 60 mục tiêu và đưa tham số của 36 mục tiêu trong đó sang xe phóng tên lửa. Ảnh: Radar trinh sát của hệ thống Buk (khoanh vòng màu đỏ).

Radar trinh sát của HQ-16 là anten điều khiển chủ động, khả năng tìm bắt nhiều nhất là 144 mục tiêu, nhưng trên thực tế nó chỉ có thể theo bám và khóa 48 mục tiêu, khi truyền sang xe chỉ huy điều khiển sẽ chỉ còn điều khiển được hỏa lực đối với 24 mục tiêu. Như vậy, về radar trinh sát, hệ thống HQ-16 kém hẳn hệ thống của Buk. Ảnh: Radar của hệ thống HQ-16.

Điều mà HQ-16 không thể sánh được đó là, đơn vị hỏa lực của Buk-M2 vốn kèm theo 4 đến 6 xe phóng đạn, có gắn radar điều khiển hỏa lực 9S36, có thể bổ sung bù đắp những khiếm khuyết về tìm bắt mục tiêu bay thấp. Ảnh: Xe chở đạn kiêm xe phóng của hệ thống Buk-M3.

Mỗi đơn vị hỏa lực của Buk-M2 mới được tăng cường thêm 2 xe radar điều khiển hỏa lực 9S36 có thiết bị nâng cao bệ radar, có khả năng tìm bắt mục tiêu bay thấp; điều này có nghĩa 1 đơn vị hỏa lực Buk-M2 có thể đồng thời tấn công 16 đến 32 mục tiêu, gấp 2 đến 4 lần so với HQ-16.

Điều đáng chú ý là, trước kia Trung Quốc chỉ muốn thông qua nhập khẩu của Nga tàu khu trục 956E, 956EM để được sở hữu tên lửa 9M38, 9M317. Về tính năng của 2 loại tên lửa đó thì HQ-16 thực sự không thể sánh bằng. Đánh giá chung về tính năng tổng thể thì Buk hoàn toàn vượt trội hơn HQ-16.

Video Tổ hợp tên lửa phòng không Buk-M3 của Nga - Nguồn: QPVN

Tiến Minh

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: http://kienthuc.net.vn/quan-su/ten-lua-hong-ky-16-phai-chang-la-phien-ban-buk-kieu-trung-quoc-1397875.html