Tạo giống lúa, vịt, tôm, cá chịu mặn để 'trị' hạn mặn vùng ĐBSCL

Nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 1 trong 4 nhiệm vụ Bộ NNPTNT triển khai để thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ để phát triển bền vững vùng ĐBSCL. Đến nay, đã có nhiều giống lúa chịu mặn, vịt chịu mặt được chọn tạo.

Theo báo cáo của Bộ NNPTNT, số liệu thống kê năm 2018 tổng diện tích trồng lúa của Đồng bằng sông Cửu Long khoảng 4.847 nghìn ha, trong 10 giống được gieo trồng phổ biến nhất thì các giống do Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long chọn tạo có 7 giống với tổng diện tích gieo trồng chiếm khoảng gần 50% diện tích gieo trồng của toàn vùng. Trong đó, nhóm giống lúa chủ lực gồm: OM5451, OM6976, OM4900, OM7347, OM4218, IR50404...; nhóm giống lúa nếp và thơm đặc sản: Jasmine 85, VD20, ST5, RVT, Nàng Hoa 9, nếp IR4625, nếp bè...

Đặc biết, các nhà khoa học đã chọn tạo được một số giống lúa chịu mặn: OM6976, OM5451, OM9921, OM5621, OM6677, ST5... chịu được mặn ở mức độ trung bình – khá (từ 2-3‰); các giống lúa chịu mặn ở mức độ khá hơn (khoảng 4‰) là Một bụi đỏ, OM2517, OM9577, OM5464...

Các nhà khoa học khảo nghiệm giống lúa chịu mặn, thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL. Ảnh: I.T

Các nhà khoa học khảo nghiệm giống lúa chịu mặn, thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL. Ảnh: I.T

Các giống lúa chịu hạn có khả năng chịu điều kiện khô hạn từ cấp 1- cấp 3 (ở giai đoạn mạ và giai đoạn trổ), năng suất cao, phẩm chất gạo tốt (đạt tiêu chuẩn xuất khẩu) và còn có khả năng chịu phèn mặn tốt gồm: OM7347, OM5464, OM6162, OM7398, OM7364, OM8928 và OM6677

Giống lúa giàu vi chất dinh dưỡng, có hàm lượng sắt trong hạt gạo cao góp phần cải thiện dinh dưỡng, đặc biệt cho nhóm người nghèo dùng gạo là nguồn thực phẩm chính: OM6976, OM5451, OM5472, OM3995, OM6561.

Đối với chương trình nghiên cứu chọn tạo cây ăn quả, đã tuyển chọn và giới thiệu được một số giống cây ăn quả chủ lực cho vùng ĐBSCL như sau: 4 giống măng cụt BDMC2, BTMC3, BTMC4, BTMC6; sầu riêng cơm vàng sữa hạt lép S1BL; cam mật không hạt; giống bưởi đường lá cam ít hạt Long Định 4; giống cam sành không hạt Long Định 6; thanh long ruột đỏ Long Định 1; giống thanh long có thịt quả màu tím hồng Long Định 5; dứa Cayenne Long Định 2 cùng với hàng trăm cây đầu dòng chôm chôm Rông Riêng, sầu riêng cơm vàng sữa hạt lép - S1BL; sầu riêng Ri-6 - S2VL; sầu riêng - SĐN46 H; mít - MĐN06H, MĐN09H, MBRVT32H...

Các giống cây ăn quả mới, trong đó có sầu riêng cũng được nghiên cứu, chọn tạo.

Các gốc ghép chống chịu mặn, phèn, úng, hạn cũng được giới thiệu để phát triển cây ăn quả ở những vùng khó khăn như gốc ghép bưởi bòng (Citrus sp), bưởi đường hồng (Citrus grandis); bưởi hồng đường (Citrus grandis); sảnh (Citrus nobillis) chịu mặn, chịu ngập tốt, chịu phèn và hạn ở mức trung bình, gốc ghép Bưởi bòng (Citrus sp), Bưởi đỏ và bưởi lông cổ cò chịu bệnh thối rễ tốt vì vậy mở rộng vùng sản xuất sang các vùng nước lợ ven biển.

Hiện nay, giống vịt chịu mặn đang được nghiên cứu và chuyển giao vào sản xuất. Năm 2018 đã chuyển giao khoảng 01 triệu con giống vịt chịu mặn cho các tỉnh ven biển phục vụ chăn nuôi trong điều kiện bất lợi của biến đổi khí hậu. Ngoài giống vịt chịu mặn, giống dê và thỏ cũng là hai giống vật nuôi thích ứng tốt với điều kiện hạn mặn vùng ĐBSCL cũng đang được nghiên cứu và phát triển.

Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích nuôi trồng thủy sản lớn, chiếm 63%–73% tổng diện tích nuôi trồng của cả nước. Do vậy đã đặt ra những thách thức và yêu cầu từ sản xuất trong việc nghiên cứu, chọn tạo các giống thủy sản chất lượng cao, có khả năng kháng bệnh, chịu mặn, hoặc di các giống (rong biển) để phát triển nuôi trồng tại các khu vực chịu ảnh hưởng, … góp phần chủ động cung cấp nguồn giống chất lượng tốt cho người sản xuất, đồng thời thúc đẩy phát triển ổn định và giảm thiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới ngành thủy sản tại ĐBSCL.

Sản xuất cá tra giống. Ảnh: I.T

Trên cơ sở đó, các nhà khoa học đã chọn tạo, công nhận giống cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) chọn giống nâng cao tốc độ tăng trưởng thế hệ thứ 2 (PanGI2) và chuyển giao vào sản xuất giống cá tra bố mẹ, nâng cao tăng trưởng trên 20%, kháng bệnh; đã sản xuất cung cấp giống hậu bị cho các cơ sở sản xuất tại ĐBSCL, góp phần nâng cao chất lượng, bổ sung, thay thế đàn cá bố mẹ, chất lượng con giống, khả năng kháng bệnh, từng bước đáp ứng đủ giống chất lượng cho sản xuất...

Nghiên cứu được công nghệ sản xuất giống nhân tạo đối với cá dứa (giống cá dứa có thể nuôi trong ao đất hoặc lồng bè, độ mặn dao động 0-15‰), góp phần đa dạng hóa loài nuôi và khả năng thích nghi với môi trường mặn, lợ hoặc các khu vực xâm nhập mặn tại ĐBSCL.

Chọn lựa và được công nhận giống rô phi chọn giống mặn lợ thế hệ G5 (Oreochromis niloticus) có các tính trạng tăng trưởng nhanh, màu sắc đẹp, ít đốm đen, có tỷ lệ sống cao hơn và có khả năng chịu mặn tốt hơn rô phi thường đang được nuôi tại ĐBSCL.

Tạo được công nghệ điều khiển giới tính và công nghệ chọn giống tôm càng xanh đã giúp đàn tôm càng xanh nâng cao tốc độ tăng trưởng tăng > 20% so với đại trà. Tôm càng xanh chọn giống đã được đưa vào nuôi thử nghiệm ở 02 mô hình nuôi bán thâm canh trong ao và trong ruộng lúa ngập lũ. Kết quả cho thấy tôm có tốc độ tăng trưởng cao và có tỷ lệ tôm đạt kích cỡ loại 01 cao hơn sau thời gian nuôi tương đương với tôm càng xanh chưa qua chọn lọc.

Nghiên cứu chọn được giống tôm thẻ chân trắng, tôm sú sạch bệnh, tăng trưởng nhanh, cho tốc độ tăng trưởng và khả năng chống chịu với các điều kiện cực đoan, sạch bệnh; đã đưa ra được quy trình kỹ thuật nuôi tôm sú, rửa mặn, trồng lúa và lịch mùa vụ cho mô hình canh tác tôm-lúa để đạt được tính bền vững thích ứng với sự thay đổi của khí hậu; đồng thời lựa chọn được các giống lúa thích hợp với mô hình canh tác luân canh tôm sú – lúa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế vùng bán đảo Cà Mau; góp phần thúc đẩy sự mở rộng và phát triển bền vững hơn của mô hình nuôi tôm-lúa ở ĐBSCL.

Khánh Nguyên

Nguồn Dân Việt: http://danviet.vn/dia-chi-xanh/tao-giong-lua-vit-tom-ca-chiu-man-de-tri-han-man-vung-dbscl-989321.html