Tăng cường giám sát thực hiện các FTA có hiệu lực

Cho đến nay, các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên đã thực hiện tốt các mục tiêu chính, có sức lan tỏa sâu rộng, tạo lợi ích cho nền kinh tế. Đó là kim ngạch xuất nhập khẩu tăng; thu hút nhiều các nhà đầu tư nước ngoài (FDI) không chỉ các FDI bình thường mà cả đầu tư công nghệ và theo chuỗi; nâng cao sức cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước và góp phần cải thiện chính sách, pháp luật.

Đó là những đánh giá của các thành viên Đoàn giám sát “Việc thực hiện các FTA mà Việt Nam là thành viên” của Ủy ban thường vụ Quốc hội với Bộ Công Thương vào sáng ngày 22/7.

Nhiều tác động tích cực

Kể từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 tới nay, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 FTA, trong số 13 FTA đã ký (12 FTA đã có hiệu lực, 1 FTA đã ký và phê chuẩn, nhưng chưa có hiệu lực) và 3 FTA đang đàm phán (Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA giữa Việt Nam và Khối Thương mại tự do châu Âu (EFTA), FTA giữa Việt Nam và Israel. Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh đánh giá, các FTA này đã và đang mở rộng cánh cửa thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, là cơ hội để Việt Nam kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu.

Trong số 13 FTA đã ký, có 2 Hiệp định được Quốc hội phê chuẩn là CPTPP và EVFTA, 11 FTA khác thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước, Chính phủ. Đối với Hiệp định CPTPP, sau hơn 1 năm đi vào thực thi, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang 6 nước đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP năm 2019 đạt gần 35,4 tỷ USD, tăng 8,2% so với năm 2018. Ngoại trừ Australia giảm và Singapore giữ mức tương đương, trong 6 đối tác đã thực thi CPTPP, năm 2019, xuất khẩu sang Canada tăng mạnh nhất (29,8%), sau đó là Mexico (26,3%). Đây chính là hai đối tác có quan hệ FTA mới. Tuy nhiên, thị phần hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại các nước đối tác CPTPP phần lớn còn thấp. Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho rằng, còn nhiều tiềm năng để tăng trưởng xuất khẩu, nâng cao thị phần tại thị trường các đối tác này.

Đối với 11 FTA truyền thống, tác động rõ rệt nhất đối với thương mại hàng hóa chính là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng rõ rệt. Cụ thể, năm 2019, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường có FTA đã tăng rõ rệt, đạt 123,11 tỷ USD. Trong khi đó, năm 2004, Việt Nam mới có 2 đối tác FTA là ASEAN và Trung Quốc, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 7 tỷ USD. Còn xét về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân sang các thị trường đối tác FTA kể từ khi có FTA thì Ấn Độ đạt bình quân 35,7%/năm, Hàn Quốc đạt 29,2%/năm, Chile 28,9% và Trung Quốc 20,9%. Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam sang các thị trường đối tác FTA của Việt Nam là 186 tỷ USD.

Ông Nguyễn Văn Giàu - Ủy viên BCH TW Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại, Phó trưởng Đoàn giám sát

Ông Nguyễn Văn Giàu - Ủy viên BCH TW Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại, Phó trưởng Đoàn giám sát

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang là nước nhập siêu từ các thị trường có FTA do hai thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng Việt Nam là Hoa Kỳ và EU đều chưa có FTA được đưa vào thực thi. Lý giải điều này, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho rằng, do các FTA Việt Nam tham gia cho tới nay về cơ bản là với các nước có cơ cấu kinh tế tương đối giống Việt Nam. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam khá tương đồng, thậm chí là cạnh tranh với ta như Ấn Độ, ASEAN, Trung Quốc… nên lợi ích thu được từ các FTA chưa mang tính đột phá.

Các FTA mà Việt Nam là thành viên đem về thành tích rõ rệt về lượng, song vẫn chưa được chuyển đổi thành tích về chất” - Thứ trưởng Trần Quốc Khánh thẳng thắn thừa nhận.

Cùng chung quan điểm, ông Nguyễn Mạnh Tiến - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại, thành viên Đoàn giám sát – cho rằng, các FTA đối với các đối tác có nền sản xuất mang tính bổ sung như Nhật Bản, New Zealand, Chile… đem lại tác động tích cực. Thời gian tới, sẽ đàm phán với Khối thị trường chung Nam Mỹ. Đây cũng là nền kinh tế có tính bổ sung. Việc này nên bám sát và coi đó là định hướng, nên có sự thông tin rộng rãi hơn để các cấp, ngành đặc biệt đại biểu quốc hội, người dân, doanh nghiệp biết thêm định hướng này. Điều này tăng thêm lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. “Tuy nhiên, đối với các đối tác có nền kinh tế cạnh tranh với Việt Nam, có cái Việt Nam đã đàm phán và chưa đàm phán, làm thế nào điều chỉnh để tiếp tục khai thác các đối tác này”- ông Nguyễn Mạnh Tiến nhấn mạnh.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh phát biểu tại buổi làm việc

Tăng cường giám sát thực thi

Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn của Đảng, là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và bộ phận quan trọng, xuyên suốt của công cuộc đổi mới. Để kịp thời triển khai các FTA mà Việt Nam đã ký kết và có hiệu lực, Chính phủ luôn kịp thời ban hành các văn bản pháp luật về các quy định, tiêu chuẩn về quy tắc xuất xứ, biểu thuế các loại hàng hóa để hướng dẫn chi tiết thực thi cam kết trong các FTA mà Việt Nam là thành viên.

Tuy nhiên, việc cải cách thể chế, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực thi các FTA vẫn còn chậm. Ông Nguyễn Sĩ Cương - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại, thành viên, Tổ trưởng Tổ Giúp việc Đoàn giám sát - cũng thừa nhận, việc ban hành văn bản thực thi còn chậm so với kế hoạch, kể cả CPTPP và các FTA đặt ra việc sửa đổi, xây dựng mới các văn bản. Có những văn bản chậm 1 - 2 tháng, thậm chí có văn bản chậm 5 tháng và nhiều nhất là chậm 11 tháng.

Việc ban hành văn bản này là rất quan trọng vì đây là hành lang pháp lý để triển khai việc thực hiện các FTA. Nếu không sửa văn bản quy phạm pháp luật sẽ phải đối mặt bị kiện trong các cam kết mà Hiệp định đưa ra”- ông Nguyễn Sĩ Cương nhấn mạnh.

Đoàn Bộ Công Thương tham gia buổi làm việc với Đoàn giám sát

Ngoài ra, công tác kiểm tra, giám sát định kỳ kết quả thực hiện các FTA thời gian qua chưa được giám sát sát sao. Ông Bùi Thanh Sơn - Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Nông, thành viên Đoàn giám sát - đề xuất Ủy ban đối ngoại, Ủy ban kinh tế của Quốc hội có chương trình, kế hoạch về việc giám sát này, không nhất thiết có Hội đồng giám sát tối cao để đôn đốc, thúc đẩy, để không tăng thêm đầu mối và tạo sức ép các cơ quan thực thi rà soát đôn đốc nghiêm túc.

“Có lẽ hàng năm, bất kỳ FTA mới nào Chính phủ ký nên có ngay Đoàn giám sát để thúc đẩy Chính phủ vào cuộc. Đồng thời tăng cường công tác giám sát, đặc biệt giám sát các FTA mới ký, để đưa các FTA đi vào cuộc sống ngay” - ông Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hộiNguyễn Mạnh Tiến cho hay.

Từ năm 2019, Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 789/NQ-UBTVQH14 ngày 17/10/2019 về việc thành lập Đoàn giám sát “Việc thực hiện các FTA mà Việt Nam là thành viên”. Ông Nguyễn Văn Giàu - Ủy viên BCH TW Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại, Phó trưởng Đoàn giám sát – cho biết, Đoàn giám sát gồm 29 thành viên và Tổ giúp việc thực hiện giám sát việc thực hiện các FTA mà Việt Nam làm thành viên. Ngay tháng cuối năm 2019, Đoàn giám sát đã phê duyệt đề cương báo cáo để phù hợp với các bộ, ngành. “Đến nay, cơ bản nhận đầy đủ các báo cáo theo yêu cầu giám sát. Đã có 62/63 tỉnh, thành phố; 22/23 bộ ngành; 11 tập đoàn, tổng công ty lớn; 23 hiệp hội đã gửi báo cáo và 41 báo cáo của Đoàn đại biểu Quốc hội” – ông Nguyễn Văn Giàu thông tin.

Đặc biệt, từ cuối tháng 2, đoàn giám sát đã chuẩn bị tổ chức đi thực địa, giám sát các tỉnh miền Trung, khu IV, tuy nhiên, do dịch Covid-19 nên hoãn đến đầu tháng 7, Ủy ban qhường vụ Quốc hội mới kết nối lại hoạt động các cơ quan Quốc hội tại địa phương. Trưởng đoàn giám sát đã có đề nghị làm việc với một số bộ ngành trước rồi mới làm phiên toàn thể, xây dựng báo cáo với Ủy ban Thường vụ rồi báo cáo tiếp.

Sắp tới Đoàn giám sát sẽ làm việc với Chính phủ, Quốc hội, thể chế hóa chính sách đường lối của Đảng. Bộ Công Thương cũng sẽ được giao giúp cho Chính phủ làm báo cáo này. Vì vậy, cần mạnh dạn chỉ ra văn bản quy phạm pháp luật nào chậm, chỉ rõ trách nhiệm các bộ, ngành, địa phương” - ông Vũ Hồng Thanh - Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế làm Phó Trưởng Đoàn giám sát thông tin thêm.

Ngoài ra, với công tác tuyên truyền, các thành viên Đoàn giám sát cũng đề xuất cần phân loại đối tượng để phổ biến tuyên truyền các FTA, sản phẩm tuyên truyền phải cụ thể như xuất bản cẩm nang, câu hỏi vấn đáp. Tuy nhiên, việc tuyên truyền đạt hiệu quả cao khi các doanh nghiệp chủ động, sẵn sàng mọi tâm thế để thực thi các FTA có hiệu quả.

Đặc biệt, vấn đề tận dụng biện pháp phi thuế quan, hàng rào kỹ thuật, cần tư vấn cho doanh nghiệp đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật để vào thị trường các nước, đảm bảo xuất siêu chứ không triền miên nhập siêu; chuẩn bị khả năng giải quyết tranh chấp thương mại; rà soát lại Chiến lược tổng thể về tham gia FTA, cập nhật bổ sung đến năm 2030.

Thu Phương - Bùi Hùng

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/tang-cuong-giam-sat-thuc-hien-cac-fta-co-hieu-luc-140767.html