Tăng cường đoàn kết và dân chủ theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc xuyên suốt trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Người, trở thành chiến lược cách mạng của Đảng và dân tộc, là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu làm nên mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Cùng với đoàn kết, gắn liền với đoàn kết là dân chủ cũng luôn được Đảng và Nhà nước ta coi vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Đoàn kết thật sự mới có dân chủ và thực hành dân chủ là nền tảng vững chắc để xây dựng đoàn kết trong Đảng, là hạt nhân, động lực để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đoàn kết đại đa số người dân trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, bao gồm các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Ảnh TL

Đoàn kết đại đa số người dân trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, bao gồm các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Ảnh TL

Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người thiết kế lý luận và thực hành đoàn kết và dân chủ rộng rãi, nhuần nhuyễn nhất, mà còn là linh hồn, biểu tượng kiệt xuất của xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Với Người, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; giữa đoàn kết và dân chủ luôn là nguyên tắc tối cao, là bản chất cách mạng và khoa học dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.

Đoàn kết được hiểu là sự kết thành một khối thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động của con người nhằm một mục đích chung. Ở nước ta, đoàn kết luôn gắn liền với yêu nước. Khi lòng yêu nước được gắn với đoàn kết của Nhân dân sẽ trở thành một sức mạnh vô cùng to lớn, vững chắc. Đây là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”1. Chính bởi vậy, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhận thức rõ vị trí, vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Trong bài nói chuyện tại lớp chỉnh huấn cho cán bộ trung, cao cấp của Bộ Quốc phòng vào tháng 5/1957, Người cho rằng, đoàn kết là “điểm mẹ” rất quan trọng: “Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”2. Nghiên cứu di sản của Người để lại cho thấy, có lúc Người dùng khái niệm “Đoàn kết”, “Toàn dân đoàn kết”, “Đại đoàn kết toàn dân”, “Đoàn kết dân tộc”, “Toàn dân tộc ta đoàn kết”, “Lực lượng đoàn kết”...

Tùy mỗi bối cảnh, cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội hàm của các khái niệm nói trên là thống nhất, tựu chung đều có nghĩa là đoàn kết đại đa số người dân trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, bao gồm các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở trong và ngoài nước.

Hơn thế, theo tư tưởng của Người, Đảng và Nhà nước ta nhất quán thực hiện là đoàn kết bao hàm, trải rộng cả về mặt không gian và thời gian, tức đoàn kết rộng rãi và lâu dài. Đoàn kết được coi là một chính sách dân tộc nhằm vận động tất cả lực lượng Nhân dân, không để sót, bỏ rơi một người dân nào và tất cả đều hướng đến một mục tiêu chung là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ.

Cơ sở của đoàn kết nói trên là sự thống nhất cao về lợi ích, được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại; dựa trên nền tảng của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính nhờ đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết xã hội; từ đoàn kết dân tộc đến đoàn kết quốc tế đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Song song với xây dựng, củng cố, phát huy truyền thống đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thầy thiết kế lý luận và thực hành dân chủ rộng rãi, gắn đoàn kết với dân chủ. Trên thực tế, những ý kiến, kiến giải và đặc biệt thực hành về đoàn kết gắn với dân chủ rộng rãi đã nâng lên tầm tư tưởng lớn lao, nhãn quan chính trị sâu rộng của Người.

Trong hệ thống di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói và viết, nhất là thực hành về đoàn kết và dân chủ đều toát lên tư tưởng lớn mang giá trị ở tầm chiến lược, gắn liền với thời đại.

Người không những chỉ rõ bản chất của đoàn kết và dân chủ, mà còn chỉ rõ mối quan hệ giữa đoàn kết với dân chủ. Theo Người, bao giờ đoàn kết cũng gắn liền với dân chủ, muốn đoàn kết thì phải mở rộng và bảo đảm dân chủ và mở rộng dân chủ là để đoàn kết hơn. Dân chủ là nói lên vị thế người dân được làm chủ, dân là chủ. Dân chủ là quyền lực thuộc về Nhân dân, của Nhân dân, do Nhân dân tổ chức và thực hiện. Nói đến dân chủ là nói đến người dân được thực sự làm chủ nhà nước và xã hội.

Chính Nhân dân chứ không phải ai khác là người ủy quyền cho cơ quan nhà nước, cho cán bộ công chức nhà nước đại diện cho mình quản lý nhà nước và chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân. Còn cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải có trách nhiệm bảo đảm để mọi người dân thực hiện các quyền dân chủ cơ bản của mình.

Nói cách khác, cơ quan nhà nước do dân lập ra phải dựa vào Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát, giám sát của Nhân dân. Đối với mỗi cán bộ nhận sự ủy quyền của Nhân dân thì không chỉ luôn gần gũi Nhân dân để tuyên truyền cổ động, giải thích, giáo dục, tổ chức cho Nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật mà còn làm sao để cho người dân giữ đúng vị thế là người chủ và phát huy được năng lực làm chủ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Đây chính là cốt lõi, là thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, xây dựng để Đảng và Nhà nước ta tổ chức thực hiện, thực hành trong cuộc sống. Đây chính là bước chuyển cơ bản trong nhận thức và hành động, ngày càng xác định rõ hơn vị thế người dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Dân, do Dân và vì Dân.

Rõ ràng có thực hiện, thực hành tốt dân chủ, bảo đảm được dân chủ mới nói đến tiền đề và tăng cường đoàn kết. Mỗi bước tiến, sự hoàn thiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ là cơ sở vững chắc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi lẽ, đoàn kết là tập hợp đông đảo nhất mọi lực lượng quần chúng nhân dân vào cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung đem lại độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc cho Nhân dân.

Nói cách khác, đoàn kết là dựa trên ý thức, sự giác ngộ thống nhất lợi ích chung và lợi ích riêng và tất cả lại cùng thống nhất trong lợi ích chung của đất nước, của dân tộc. Cùng với dân chủ, nhờ dân chủ, người dân đồng tâm nhất trí, đồng thuận về nhận thức và hành động, cũng có nghĩa là được giác ngộ mà đoàn kết gắn bó, chung sức chung lòng với nhau hơn để cùng hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp chung của dân tộc, đất nước.

Ở nước ta cùng với sự phát triển của cách mạng, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến nay, nhận thức của Đảng, Nhà nước ta về đoàn kết và dân chủ cũng đã có bước phát triển mới.

Thực tế hơn 35 năm đổi mới đã chứng minh, kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, càng ngày Đảng ta càng xác định và định hướng rõ hơn vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính vì vậy, một trong những bài học kinh nghiệm đầu tiên được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng rút ra chính là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt và thực hiện “Lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy cho được quyền làm chủ của Nhân dân. Bởi lẽ chính Nhân dân là nền tảng của chế độ; ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của Nhân dân sẽ là nguồn gốc hình thành nên đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật.

Đoàn kết toàn dân chính là để phát huy những lợi thế của dân để những ai có tài, có đức, có sức, có lòng đều được phát huy. Vận động Nhân dân, đoàn kết Nhân dân thành một lực lượng, sức mạnh, nguồn động lực to lớn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng. So với những động lực khác thì đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược và là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu nổi lên hàng đầu của cách mạng nước ta.

Cùng với nâng tầm nhận thức, hành động về đại đoàn kết toàn dân tộc là quá trình đổi mới từ tư duy lý luận đến thực hành trong lãnh đạo, điều hành đất nước của Đảng và Nhà nước ta, bắt đầu từ vấn đề lợi ích. Chỉ khi đặt đúng vị trí của yếu tố lợi ích, cũng có nghĩa là người dân được thụ hưởng những quyền lợi mà họ xứng đáng được hưởng, có quyền được tham gia bàn bạc những công việc của Nhà nước và xã hội liên quan trực tiếp đến họ mới nói đến có dân chủ thực sự, thực chất: “Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân”3. Đây là yếu tố quan trọng đầu tiên, có tính quyết định được Đảng ta khẳng định, bảo đảm cho giá trị thực tế của dân chủ được thực hiện.

Giá trị của dân chủ là nhằm bảo vệ các quyền dân sinh, dân trí, là quyền con người được thực hiện, được bảo đảm. Sự nghiệp cách mạng của Đảng ta thực hiện không gì khác cũng là nhằm xóa bỏ cảnh nô lệ, áp bức, bóc lột, giành lấy độc lập, tự do để xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, mang lại hạnh phúc cho Nhân dân. Việc bảo đảm và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân, bảo đảm công bằng xã hội, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội là yếu tố hết sức quan trọng, là cơ sở giúp cho khối đại đoàn kết dân tộc ngày một được củng cố, tăng cường hơn.

Cùng với việc quan tâm đến vấn đề lợi ích, Đảng và Nhà nước ta còn đặc biệt quan tâm đến thực hiện, thực hành dân chủ rộng rãi và phát huy chủ nghĩa yêu nước, coi đó là những yếu tố then chốt củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Trên cả bình diện lý luận cũng như thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật, Đảng và Nhà nước luôn thấu hiểu và nhất quán tăng cường gắn đoàn kết vởi mở rộng dân chủ nhằm xây dựng một xã hội đồng thuận. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Ở đâu có dân chủ thì ở đó có sự đồng thuận, nhất trí. Có sự đồng thuận, nhất trí, tức có sự đoàn kết thì có sức mạnh. Rõ ràng tư duy và thực hành dân chủ ngày càng có sự phát triển trong mối quan hệ với tư duy về đoàn kết toàn dân tộc.

Trong điều kiện ở nước ta chỉ có duy nhất một Đảng cầm quyền lãnh đạo, Đảng càng đặc biệt quan tâm củng cố, xây dựng mối quan hệ gắn kết giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân cùng thống nhất chung trong hệ thống chính trị. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, do vậy mối quan hệ của các thành tố nói trên trong hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo càng được củng cố vững chắc bao nhiêu sẽ càng tạo điều kiện cho Nhân dân được thực hiện quyền dân chủ trong mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng và đối ngoại bấy nhiêu.

Đây chính là tiền đề, cơ sở cho đại đoàn kết được củng cố, tăng cường. Sự kết hợp dân chủ với đoàn kết này chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta, tạo thành động lực quan trọng hàng đầu của phát triển xã hội, là nhân tố tạo nên sức mạnh quyết định đưa đến mọi thắng lợi ở nước ta.

Đảng ta là Đảng cầm quyền, có trách nhiệm, sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng nên Đảng ta còn đặc biệt chú ý và coi trọng, nhấn mạnh và kết hợp nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức, hoạt động công tác Mặt trận cũng như các đoàn thể quần chúng để làm phong phú thêm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp này, một mặt bảo đảm cho Đảng có đủ sức mạnh thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng có đủ sức mạnh mới có cơ sở, điều kiện thực hiện dân chủ hóa xã hội. Nền dân chủ mới, tiến bộ rõ ràng không thể thiếu vắng sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ có như vậy mới nói đến một nền dân chủ thực chất mang bản chất của nền dân chủ nhân dân và dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa chống được tình trạng dân chủ hình thức vừa chống được cả tình trạng tập trung quan liêu.

Dù vậy, nói đến củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa không thể thiếu vắng vai trò to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Lịch sử gần một thế kỷ từ khi ra đời đến nay cũng đã cho thấy, mỗi bước tiến của việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như mở rộng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa đều không tách rời với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Như một sự sắp đặt của lịch sử, sự ra đời và phát triển của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gắn liền và bảo đảm cho giá trị đoàn kết và dân chủ được thực hiện, phát huy và phát triển. Ngược lại, mỗi bước tiến của việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa lại góp phần củng cố thêm, tạo ra bước tiến mới, rộng mở hơn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thực sự trở thành một liên minh chính trị, là trung tâm thu hút, quy tụ được nhiều nhất các lực lượng xã hội ở trong nước và ngoài nước góp phần to lớn của mình để cùng với hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố và tăng cường vững chắc hơn khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tạo đà, thúc đẩy, mở rộng hơn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Còn Đảng, nhờ đó cũng thực sự trở thành hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc có sức thu hút nhân lên sức mạnh của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội, cả hệ thống chính trị nói chung.

Với tất cả sự nỗ lực nói trên, mọi chủ trương, chính sách, pháp luật trong lãnh đạo, điều hành của Đảng và Nhà nước ta đều tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí tạo được sự đồng thuận, không khí dân chủ, tin tưởng, phấn khởi từ trong Đảng đến ngoài Đảng, cả xã hội nói chung. Đây chính là tiền đề, cơ sở đưa đến những thắng lợi to lớn của nước ta trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia. H. 2002, tr 281.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8. Nxb. Chính trị quốc gia. H. 2002, tr. 392.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Một số văn kiện của Đảng về công tác dân vận (1976-2000). Nxb. Chính trị quốc gia. H. 2000, tr. 99-100.

Nguyễn Quang Du - Tiến sĩ, nguyên Giám đốc

Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học MTTQ Việt Nam

Mai Bích Ngọc - Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Nguồn Mặt Trận: http://tapchimattran.vn/dai-doan-ket/tang-cuong-doan-ket-va-dan-chu-theo-tu-tuong-cua-chu-tich-ho-chi-minh-52040.html