Sự tích Bà Chúa Mía

Bắt đầu từ hôm bước sang tháng Chạp, bà Lý ngày nào cũng bực bội trong lòng, vì cô Lân, đứa con gái độc nhất của bà, cứ bỏ nhà đi biền biệt, có đêm còn không về.

Cây mía Kim Tân có màu đen nhánh, gióng dài, cây to như bạch đàn, đặc biệt ăn mía mềm và thơm ngon

Cây mía Kim Tân có màu đen nhánh, gióng dài, cây to như bạch đàn, đặc biệt ăn mía mềm và thơm ngon

Gia cảnh đơn lẻ một mẹ một con đã trống vắng càng thêm phần trống vắng. Không những thế, bà còn bị mang tiếng là có đứa con gái vừa mới nứt mắt ra đã nhiễm thói lang bạt kỳ hồ. Tuy vậy, bà Lý vẫn còn tí chút an ủi là nghe đâu, con gái bà đi phục dịch việc quân.

Số là, đã gần tháng nay trong cái bản Trạc xa xôi, cách trung tâm phủ lỵ Kim Tân đến hơn hai ba mươi dặm đường rừng đã rúng động nhiều tin tức. Lúc đầu là tin giặc Thanh đã chiếm Thăng Long, dân kinh kỳ chạy loạn tứ tóe khắp nơi, có mấy đám đã dạt vào đến tận xứ Thanh Hóa. Giặc Thanh có bọn Việt gian dẫn đường đã truy đuổi quân ta đến bờ bên kia con sông Gián Khuất ở Ninh Bình và gióng dọa ầm ĩ lên rằng, ăn Tết Nguyên đán xong, chúng sẽ vượt Tam Điệp, đánh thốc vào Thanh Nghệ, đánh tiếp đến tận cùng phía Nam Đại Việt.

Ít ngày sau bỗng có tin vui, đức Quang Trung hoàng đế đã lên ngôi ở Phú Xuân, thân chinh dẫn quân thần tốc ra Bắc Hà đánh giặc. Đến Thanh Nghệ, ngài dừng đại quân, mộ thêm binh sĩ, rồi tiến ra Tam Điệp, hội quân với đô đốc Ngô Văn Sở, tổng duyệt quân cơ vô cùng hoành tráng. Nghe rồi, bà Lý lại thấy trai tráng trong bản có đến vài ba mươi người háo hức đi ứng tuyển và được thu nạp.

Cậu Tư, cái cậu người làng đang nhắm nhe cô Lân con gái bà làm vợ, hôm đến chào bà để ra trận còn khoe, cậu ta đã được phiên vào đội lính đánh trống trận cầm cờ tướng trong đạo quân tiên phong. Tuy lâu nay chẳng ưa gì cậu này, bà cũng rút hầu bao cho cậu năm tiền để làm lộ phí. Cậu Tư không nhận mà còn thưa với bà rằng, quân của vua Tây Sơn đã được nhân dân khắp vùng úy lạo, chu cấp đầy đủ, tiền bạc không cần dùng đến. Cậu Tư chỉ rụt rè bày tỏ tâm nguyện bấy lâu nay, rằng cậu và con gái bà cùng lớn lên trong bản Trạc, hai người quyến luyến nhau đã lâu, nay cậu đầu quân đánh giặc Thanh, nếu may mắn còn sống sót trở về, xin bà hãy cho cậu được làm rể.

Mía Kim Tân rất kén đất, chỉ thích hợp trồng trên đất đỏ bazan

Trước lời khẩn cầu của chàng trai sắp ra nơi trận mạc, sinh tử khó lường và có cả con gái mình ngồi cạnh, bà Lý không nỡ thẳng thừng chối từ, nhưng bà cũng chỉ nói kiểu chung chung, rằng bà chúc cậu Tư lên đường bình an may mắn, nơi chiến trận tránh được mũi tên hòn đạn, lập công to để thỏa chí làm trai và báo đáp hồng ân trời bể của vua Tây Sơn chứ không hứa điều gì chắc chắn cả. Dù bà đã nói thế nhưng con gái bà vẫn cứ xoắn xuýt lấy anh lính trẻ, rồi sau đó cô mượn cớ đi phục vụ quân nhu để theo anh ta ra tận Tam Điệp.

Lúc đầu bà Lý mắng mỏ ghê lắm nhưng thấy người trong bản Trạc, người tổng Cát, kẻ chở bó mía tím bằng thuyền, người xe lương thảo bằng trâu, bằng ngựa nhộn nhịp xuôi về dãy Tam Điệp phục dịch việc quân, úy lạo tướng sĩ, bà không giận dỗi con gái nữa. Không giận nhưng mà bà Lý lo lắm. Ruộng một sào, con một đứa, nếu chẳng may mất mùa thì mất trắng, tuổi già lại đang đến sầm sập, nếu cơ nhỡ điều gì thì bà biết lấy đâu làm chỗ dựa? Mỗi khi sực nghĩ, qua cái Tết Kỷ Dậu này, sẽ sang tuổi sáu mốt, đúng một vòng can chi, sáu mươi năm của một đời người, bà Lý lại giật mình lo lắng.

2. Bà Lý muộn mằn mãi đến năm bốn hai tuổi mới có con. Thuở còn đương thì, bà Lý đẹp gái nổi tiếng cả vùng Kim Tân, lại có thêm cái khiếu hát hay, múa dẻo nữa. Bà đã từng được quan tổng trấn Thanh Hóa vời xuống đình làng Hà La ở phủ Tống Sơn, cho đội mũ miện, mặc xiêm y rực rỡ, ngồi ngôi tướng bà trong cuộc cờ người hằng năm giữa các tay cờ tướng trứ danh của xứ Thanh và các đối thủ kỳ phùng đến từ cố đô Tràng An. Bị tiếng là xướng ca vô loài nên mãi đến hơn bốn mươi tuổi bà mới được một viên lại luống tuổi ở phủ huyện Kim Tân cưới hỏi làm kế mẫu cho đám con đông đúc của ông ta mới bị mồ côi.

Mía Kim Tân ép ra nước rồi cô thành mật, có vị ngọt thuần khiết, thanh tao

Bà sinh với ông được bé Lân và khi bé lên hai thì viên lại già cũng chầu giời. Vì các con của viên lại này quá hỗn láo với kế mẫu nên bà Lý phải bỏ huyện, bế con gái vào bản Trạc nằm sâu trong núi, lập kế sinh nhai như một thứ dân ngụ cư không họ hàng, không vai vế. May nhờ có thêm nghề bốc thuốc nam, cứu được nhiều người trong vùng, nên bà không bị người dân bản Trạc khinh ghét, chèn ép.

Khi lớn lên, cô Lân bội phần xinh đẹp, mới mười lăm tuổi đã được ông huyện Kim Tân nhắm nhe cho con trai, một cống sinh đang theo học vị Bảng nhãn Hiệp Lộ nổi tiếng thi thư ở vùng Cổ Quăng - Bột Thượng. Là người gặp không biết bao nhiêu là cơ nhỡ trong đời, hay tin này, bà Lý mừng còn hơn bắt được vàng mười, tưởng sẽ có được chỗ dựa chắc chắn, con gái bà sẽ vào được nơi quyền quý, thoát khỏi cảnh cổ cày vai bừa. Nhưng khi bà đem việc đó bàn với Lân thì cô liền lắc đầu quầy quậy, bảo rằng, cô đang còn nhỏ, sau này “nếu trời để cho sống” cô thích trâu ta ăn cỏ đồng ta, chỉ muốn lấy cậu Tư làm chồng mà thôi. Tư là một chàng trai khỏe mạnh, hiền lành tốt bụng, nhưng mồ côi từ nhỏ, họ hàng đã ít mà toàn là những kẻ thất bát khổ nghèo. Sợ con gái mình sẽ lây cái khổ đó nên bà Lý luôn phản đối ý định của con gái rồi tỏ cả thái độ lạnh nhạt với cậu Tư. Nhưng cha mẹ sinh con, trời sinh tính, bà chẳng còn biết phải làm gì nữa.

3. Tại quân doanh Tam Điệp, một lần Quang Trung hoàng đế đi thị sát quân cơ gặp lúc mặt trời đứng trưa, nắng hanh, gió cào dội lên trước đợt gió rét đại hàn sắp kéo về, ngài ghé vào một trại tượng binh nghỉ ngơi, tránh nắng. Tướng sĩ ở đấy cũng đang giải lao sau một cuộc tập trận, luyện võ. Biết tính đức vua luôn thân thiện, sẻ chia ngọt bùi với thuộc hạ, cả một bọn đang ăn mía vội tranh nhau dâng mời ngài ngự thiện, giải khát. Ngài ăn thấy ngon, luôn miệng khen ngợi thứ mía quý, mềm mà không tơi, ngọt lịm và có dư vị. Ngài hỏi về xuất xứ giống mía quý đó. Viên tướng chỉ huy đội tượng binh tâu rằng, đây là giống mía tím Kim Tân do người dân vùng ấy mang cùng lương thảo đến úy lạo, khao quân. Mía này không những giúp quân sĩ giải khát sau mỗi lúc tập trận rất tốt mà cho voi chiến ăn, chúng cũng rất thích, ăn nhiều hơn hẳn các loại rơm cỏ, cây lá quen thuộc khác. Được ăn loại mía tím, sức vận động của đàn voi chiến hanh hoạt hẳn lên. Hiện trong khẩu phần thường ngày của các thớt voi trận, mía Kim Tân chiếm đến hơn phân nửa. Nghe tâu xong, nhà vua liền ghé chuồng voi để thực mục sở thị. Ngay sau đó, ngài ban chỉ dụ, lập một cơ lính hậu cần chuyên chở mía tím Kim Tân đi theo đại quân.

Thế là không khí vận chuyển mía đi úy lạo tướng sĩ Tây Sơn ở vùng Kim Tân lại càng thêm phần náo nức, nhộn nhịp.

Cô Lân cũng có thêm dịp đi cùng đoàn chở mía ra Tam Điệp để mong được gặp chàng trai của mình. Khi đến nơi, cô hay tin chàng Tư đã theo cánh quân tiên phong đi tiền bộ từ hôm trước. Cô buồn lắm. Đang khi đó thì đội quân chở mía mới thành lập đến thu nhận mía của dân Kim Tân đóng góp chất lên các xe nhà binh để cùng đại quân lên đường. Cô Lân nảy ra ý định xin đăng lính vào đội quân chở mía, nhưng rồi ngay sau đó cô biết, quy định của quân đội Tây Sơn không tuyển lính nữ.

Giống mía tím Kim Tân là mía tiến vua

Bế tắc nhưng cô Lân không phải nữ nhi thường tình nghe theo câu ca mới xuất hiện lúc bấy giờ: “Anh đi theo chúa Tây Sơn/ Em về cày cuốc mà thương mẹ già”, mà bí mật đổi cái khăn ấm cho người lính già chăn ngựa được một bộ quân phục. Thế rồi cô bí mật giả trai, làm lính hậu cần trẩy theo đoàn quân của vua Tây Sơn ra Bắc.

Một lần, viên tổng quản đội tượng binh, dáng vóc cực kỳ cao lớn, uy vũ ngời ngời, phát hiện ra chú lính trẻ (tức cô Lân giả trang) mặt mũi thanh tú, tác phong nhanh nhẹn, nói năng lễ phép, bèn “nhấc” về làm lính hầu cận. Lân hoảng, sợ lộ “bản tướng” là gái nhưng quân lệnh như sơn, cô không thể kháng lại. Những ngày làm lính hầu cận cho viên tướng tổng quản nọ, cô gặp không biết cơ man nào là khó khăn. Lân hiểu rằng, nếu bị lộ, cô không thể giữ được phẩm tiết của mình trước viên tướng tay hổ lưng gấu, hai chân thẳng chắc như cột đình kia, hoặc cô sẽ bị trảm quyết vì tội mạo phạm quân cơ. Cô chỉ còn nước là phải hết sức ý tứ khôn khéo và luôn thầm cầu giời để sao cho viên tướng kia không nghi ngờ, không phát hiện ra mình là gái. Cũng may, cuộc hành binh của đại quân Tây Sơn cực kỳ thần tốc nên thời gian trôi nhanh, viên tướng chỉ huy tượng binh cũng bận rộn trăm nẻo, nghìn phương mưu kế trận mạc, nên không có nhiều thì giờ để ý đến cô. Vì thế mà cô chưa bị lộ.

4. Trận Ngọc Hồi là trận đánh mở màn lớn nhất của quân Tây Sơn trước cửa ngõ phía Nam Thăng Long, khi chủ tướng giặc là Tôn Sĩ Nghị và lũ bán nước Lê Chiêu Thống đang hỉ hả ăn Tết Kỷ Dậu trong hoàng thành. Trong trận ấy, các thớt voi của quân đội Tây Sơn xuất trận cực kỳ thiện chiến và quả cảm.

Nhưng cũng trong trận ấy, viên tướng chỉ huy đội tượng binh đã bị trúng đạn giặc, ngất đi. Lính hầu cận Lân phải cõng ông ta vượt qua lửa đạn về trại chữa thuốc, hậu cứ cách trận tiền đến ba, bốn dặm. Lúc nghỉ dọc đường, viên tướng chợt tỉnh lại kêu khát, lính hầu cận Lân phải xuống sông lấy nước, không may cô bị trượt chân, ngã xuống bến, binh phục ướt sũng như chuột lội, bết dán hết cả vào thân hình, đã thế một bên vai áo lại còn bị cháy sém, lộ cả một phần da thịt đang thì con gái.

Cô Lân thất kinh còn viên tướng thì bị bất ngờ tròn mắt nhìn. Sau tích tắc hãi sợ đó, “lính hầu cận” Lân vội quỳ xuống dâng nước và lạy thưa: “Xin tướng quân mở lượng hải hà tha cho đứa con gái quê mùa chỉ muốn được đi đánh giặc mà phạm tội giả trá, mạo phạm trong quân”. Viên tướng nói: “Ta khá khen cho nàng, có chí lớn khiến cánh nam nhi như ta phải nể phục. Nàng xứng đáng là một liệt nữ trong đại quân Tây Sơn. Ta sẽ tâu lên thánh thượng gia phong công huân cho nàng! Nếu qua khỏi được đận này, ta sẽ nạp nàng làm thiếp của ta. Nàng về kinh đô Phú Xuân với ta, tha hồ mà hưởng vinh hoa phú quý”. Lân chỉ đáp lại: “Bẩm lạy tướng quân, phận gái quê mùa không dám đâu ạ, xin tướng quân mời nước rồi cho nhà cháu đưa ngài đến chỗ trạm thuốc để kịp thời cứu chữa”. Viên tướng vừa uống nước vừa ngây người ngắm người lính hầu cận rắn rỏi, xinh đẹp. Rồi ông ta vẫn phải để cho cô Lân đưa đến trạm thuốc. Lần này, ông ta cố lết để cô dìu chứ không phải cõng như lúc trước. Song cô Lân chỉ vết thương của ông và nhất mực làm đúng phận sự của một lính hầu cận cứu thương.

5. Sau trận thắng khiến tướng giặc Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn và bọn chủ tướng Tôn Sĩ Nghị phải chạy chí chết về bên kia biên giới, hoàng đế Quang Trung áo bào còn ám đen khói súng vào ngự tại điện Kính Thiên sắp đặt công việc quân quản, an dân và cắt cử một phần đại quân truy kích đuổi bằng sạch lũ tàn quân giặc Thanh ra khỏi bờ cõi. Chàng Tư của cô Lân được phiên chế vào đội quân truy kích đó. Biết được tin này, Lân vội bỏ quân phục, bí mật về quê ngay giữa lúc trăm họ ở Thăng Long từ nơi chạy giặc trở về náo nức đốt hương, kết hoa bái mệnh đức vua. Dân kinh thành năm ấy ăn Tết muộn nhưng rất vui, khí thế mùa xuân đại thắng. Đào, quất từ các làng hoa Ngọc Hà, Nhật Tân được nườm nượp tải vào nội thành, đức vua chọn một cành đào đẹp nhất, cử viên hầu cận tâm phúc, có sức khỏe hơn người, phi chiến mã mang vào Phú Xuân tặng hoàng hậu Ngọc Hân. Rồi ngài ngự voi chiến trở về Nam trong niềm lưu luyến hoan ca đưa tiễn của trăm họ Thăng Long.

Viên tướng chỉ huy tượng binh cũng đã khỏi vết thương. Ông ta theo vua Quang Trung về Nam. Khi về đến Tam Điệp, ông ta sai thủ túc đi tìm cô Lân để tâu lên đức vua trọng thưởng và nạp thiếp trước khi đưa cô cùng về Phú Xuân. Hương lý vùng bản Trạc và bà Lý rất đỗi vinh hạnh nhưng cô Lân trốn vào trong rừng sâu, tránh mặt viên tướng nọ. Khi đại quân Tây Sơn hành binh đã xa, cô mới về lại bản Trạc.

Còn hoàng đế Quang Trung, lúc xa giá về Tam Điệp, đã gia phong cho giống mía tím Kim Tân là “Mía Tiến Vua”.

Và từ đó, mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), mía tím Kim Tân trở thành mía có danh hiệu của đế vương, là mía nổi tiếng nhất cả nước.

Mãi đến cuối năm Kỷ Dậu, chàng Tư mới xong việc binh trở về bản Trạc, ruộng mía cô Lân trồng đang kỳ thu hoạch và là ruộng mía tốt nhất vùng. Tất cả mía trong ruộng của cô đều được quan sở tại cấp tiền thu dụng để chở vào kinh tiến vua.

Về sau, càng ngày mía tím Kim Tân càng danh tiếng, nhưng mía tím bản Trạc bao giờ cũng là mía ngon nhất vùng. Và truyền rằng, khi trăm tuổi, cô Lân được dân cả vùng thờ làm “Bà chúa Mía”. Lễ tế “Bà chúa Mía” bao giờ cũng có hai cây mía còn cả gốc rễ, lá xanh dựng hai bên bệ thờ. Dân vùng mía Kim Tân cũng không bao giờ quên chàng Tư - phu quân của “Bà chúa Mía".

Truyện ngắn của Lê Ngọc Minh

Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/su-tich-ba-chua-mia-561429.html