Sự hội tụ 'ba trong một'ở các nghệ sĩ đa tài

Nhân nói đến trong văn chương có hội họa và âm nhạc, hoặc trong âm nhạc có hội họa và văn chương, tôi lại nhớ hồi là học sinh học cấp III, thầy giáo dạy văn của tôi nói rằng: 'Khi chào đời, trong mỗi con người đều có 30% năng khiếu văn chương; 30% năng khiếu hội hội họa; 30% năng khiếu âm nhạc, còn lại chỉ có 10% là năng khiếu khác'.

Thầy tôi nói như thế không có nghĩa tất thảy ai sinh ra cũng theo con đường văn chương, hội họa hay âm nhạc. Tuy nhiên, nhiều người do hoàn cảnh sống nên năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh không phát triển được.

Nhưng, dẫu trưởng thành ở bất kể ngành nghề nào, kể cả lao động chân tay, trong họ vẫn tiềm ẩn những khả năng văn chương, hội họa và âm nhạc. Khả năng tiềm ẩn ba trong một ấy khiến họ dễ dàng cảm nhận được cái hay trong ca từ và giai điệu của một ca khúc, đọc được ý tưởng trong một bức tranh và nhìn thấy màu sắc, hình ảnh của một bức tranh trong một đoạn văn hay một bài thơ nào đó. Khả năng tiềm ẩn ấy cộng với sự đam mê sẽ dẫn đến sáng tạo nghệ thuật.

Trên thực tế có rất nhiều nhà văn, nhà thơ, họa sĩ từ sáng tác nghiệp dư đã trở thành chuyên nghiệp. Họ đã ghi dấu ấn tên tuổi mình bằng những tác phẩm hội họa, văn chương và âm nhạc trong lòng người hâm mộ.

Bức tranh lập thể của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Thời trẻ dại, ai chẳng cảm nhận được cái hay cái đẹp khi nghe những câu chuyện cổ tích từ bà từ mẹ kể, hoặc từ phong cảnh thiên nhiên quanh nơi mình sinh sống. Từ thực tế qua từng năm tháng của cuộc đời mỗi người, cộng với trí tưởng tượng phong phú đã thôi thúc sự lao động sáng tạo văn chương, hội họa hoặc âm nhạc.

Nhà văn Tô Hoài đã quan sát tích lũy từ thiếu thời để đến năm hai mốt tuổi (1941) ông đã cho ra đời ba chương đầu lấy tên: “Con Dế Mèn". Được độc giả khích lệ, ông viết tiếp bảy chương tiếp theo. Năm 1955 ông gộp lại và lấy tên: "Dế Mèn phiêu lưu kí".

"Dế Mèn phiêu lưu kí" là một tuyệt phẩm văn xuôi dành cho thiếu nhi, nhưng tôi cũng như tất cả những người đã đọc truyện, đã đi qua tuổi trẻ dại của chính mình đến trưởng thành đều nhận thấy tính cách đa dạng của Dế Mèn được thể hiện sau những kiêu hãnh vì chiến thắng, những đau buồn vì thất bại, là những giọt nước mắt của lầm lỗi, cay đắng và hối hận. Từ những trải nghiệm trong cuộc phiêu lưu ấy, Dế Mèn đã phát triển khí phách anh hùng và lòng nhân ái rõ rệt.

Xuyên suốt từ chương đầu đến chương cuối, tôi nhận thấy sự hình thành nhân cách của Dế Mèn chính là sự phát triển nhân cách của một con người chân chính vậy.

Tác giả Tô Hoài đã tạo nên một chuỗi những hình ảnh của hội họa và với tưởng tượng của riêng mình, tôi đã nghe thấy những khúc nhạc được phát ra của các loại côn trùng, của gió lá trên mỗi cung đường “chàng Dế Mèn” đã đi qua. Những bức tranh, những giai điệu không âm thanh ấy mãi hiện hữu ở từng đoạn văn trong toàn tập "Dế Mèn phiêu lưu kí".

Đọc một đoạn trong truyện ngắn “Nhiên, Nghệ sĩ múa” của Nhà văn Ma Văn Kháng, tôi như nhìn thấy bức chân dung bằng tranh của người thiếu nữ ấy. “…Nhiên đẹp,tất nhiên là từ gương mặt thánh thiện đến làn da tẩm hương và dáng hình thanh tú. Thân hình nàng cao đúng bảy lần mái đầu nàng. Nàng đạt những số đo lý tưởng, biểu hiện giới tính đến độ rực rỡ nhất ở vòng ngực, bờ vai, vùng eo hông. Chân dài và thẳng muốt. Đôi mắt hai mí của nàng đen lay láy, gò mũi của nàng cao và một nốt ruồi ở xế trái ở cạnh mũi nàng là dấu ấn tinh tế tách nàng ra khỏi những chuẩn đích số học, khiến nàng cao hơn hẳn trạng thái mô phỏng…” (trang 348). Từ những câu văn đặc tả nhân vật trong truyện, họa sĩ có thể tạo nên một bức chân dung hoàn mĩ mà không thuộc hình thể của thiếu nữ nào.

Bức tranh Ngựa của họa sĩ Lê Trí Dũng.

Hội họa có thể phản ánh chân thực về xã hội và đời sống đương thời. Người xem dễ dàng đọc được ngôn ngữ của văn chương trong từng chi tiết của một bức tranh, một bức phù điêu hoặc một tác phẩm điêu khắc. Nhiều họa sĩ, nhà văn đã gặp không ít những vấn nạn về những tác phẩm của mình.

Cũng như "Dế Mèn phiêu lưu kí", tranh "Ngựa" của Họa sĩ Lê Trí Dũng không có bóng con người, chỉ có ngựa với mặt trời đỏ như máu hoặc mặt trăng tròn, trăng khuyết bàng bạc lạnh lẽo. Theo cảm nhận của riêng tôi, trong mỗi bức tranh, họa sĩ đã thể hiện cuộc đời của con người vậy.

*

Tôi muốn nói đến xa hơn.

Năm 1883, họa sĩ người Nga Ivan Nikolaevich Kramskoi đã hoàn thành bức tranh “Người đàn bà xa lạ”. Nguyên mẫu của bức tranh là nhân vật Anna Karenina trong tiểu thuyết của Lev Tolstoy. Thuở ấy rất nhiều người hỏi ông về nguyên mẫu. Ông đã trả lời, không có nguyên mẫu nào cụ thể. Người ta truyền nhau rằng không nên treo bức tranh ấy trong nhà. Thời kì sau này một số người đã nhận xét “Qua chân dung “Người đàn bà xa lạ” là cả một thời đại…".

Trong tiểu thuyết "Kiếp sau" của nhà văn Pháp Marc Levy, ông đã viết về danh họa Nga Vladimir Radskin và hậu họa từ những bức tranh của danh họa ấy. Có một đoạn văn như sau: “Những khung cảnh đường phố chính là nguyên nhân khiến Radskin bị trục xuất vĩnh viễn và buộc phải rời bỏ quê hương mà không bao giờ còn được quay trở lại. Sa Hoàng căm giận vì họa sĩ đã cả gan vẽ lại những thống khổ của dân chúng còn sống động hơn cả việc ca ngợi sự ưu việt của triều đại”.

*

Trong thơ cũng có những khổ có thể họa ra một bức tranh mang ý nghĩa của toàn bài. Ví như bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà Thơ Hàn Mặc Tử: “Mơ khách đường xa, khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh…”. Cả bài thơ vừa là chuyện tình nửa mơ nửa thực, vừa mang màu sắc mờ ảo của một bức tranh và cả nhạc điệu trầm buồn từ đó vọng ra nữa. Hay bài thơ “Thi đánh đu” của nhà thơ Hoàng Cầm. “tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành/ đùi chảy bước dài thon nhún vội/ bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh”. Đấy là một bức tranh dân gian bằng thơ.

Song hành ba tài năng trong một con người là nhạc sĩ Văn Cao. Nhiều đồng nghiệp đã nói ông là: Nghệ sĩ trên nghệ sĩ. Ông sáng tác văn xuôi, sáng tác thơ, và vẽ tranh. Tất cả những tác phẩm âm nhạc ông đều tự viết ca từ hay phổ từ thơ của chính mình. Cho đến nay, những nhạc phẩm ấy đã trở thành bất hủ. Đặc biệt, toàn bộ những bài thơ, những ca từ của ông viết ra đều mang màu sắc của thơ và hội họa.

Trên thực tế, ngoài tài danh về văn, thơ, âm nhạc, ông còn là một họa sĩ. Từ những năm 1943, 1944, 1945, những bức sơn dầu, bột màu của ông đã được đánh giá cao trong triển lãm Mỹ thuật. Hiện nay một số bức tranh của ông vẫn được lưu giữ trong bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Bức tranh “Cô gái ngủ trưa trong vườn” của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà.

Người sinh sau nhạc sĩ Văn Cao cũng là một người đa tài năng - đấy là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ông vẽ nhiều, vẽ theo ngẫu hứng từ cảm xúc thi nhạc đến bất chợt. Trịnh Công Sơn cũng không phổ thơ của ai. Những bài thơ ông sáng tác ra đã thành ca từ cho những ca khúc trữ tình của chính ông.

Tất cả những bài thơ ấy, ông đều nói về quê hương, tình yêu và thân phận con người. Từng con chữ lẫn ý thơ đều bảng lảng như mây như gió, nhưng đọc kĩ và suy tưởng thì thấy mỗi tác phẩm của ông đều có chiều sâu của một bức tranh trừu tượng. Tất cả những tác phẩm (thi - nhạc - họa) của Trinh Công Sơn, đã quyện vào nhau mà thăng hoa bay bổng rồi lắng sâu tới tận trái tim mỗi con người.

Nói về văn chương trong hội họa thì cảm nhận của một cá nhân, hoặc một bài viết ngắn này chưa thể thấu đáo, nhưng từ thời La Mã cổ đại, người ta đã nhận định rằng: “Họa là văn chương không lời, văn chương là họa có lời, hoặc văn là họa hữu thanh, họa là văn vô thanh”.

Nhà văn nào đó sáng tác ra những tác phẩm văn chương, trong đó không nhiều thì ít cũng có ngôn ngữ của hội họa và âm nhạc, ngược lại, trong những bức tranh của một họa sĩ nào đó không thể không có ngôn ngữ của âm nhạc và văn chương, hoặc những tác phẩm âm nhạc không thể không hội tụ cả hai yếu tố trên. Cho nên hội họa, văn chương và âm nhạc là ba thể loại riêng biệt, nhưng lại đồng nhất về ngôn ngữ nghệ thuật và không thể tách rời.

Tây Hồ, 12/2018

Nguyễn Thị Ngọc Hà

Nguồn VNCA: http://vnca.cand.com.vn/ly-luan/su-hoi-tu-ba-trong-mot-o-cac-nghe-si-da-tai-529555/