Quyền và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý

Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) nhà nước năm 2017 đã quy định cụ thể về tổ chức TGPL, quyền và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện TGPL. Theo đó, tổ chức TGPL có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu về vụ việc TGPL và có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do lỗi của người thuộc tổ chức mình gây ra trong khi thực hiện TGPL.

Trung tâm TGPL số 5 TGPL ngoài trụ sở cho người dân khu vực 3, phường Ba Láng, quận Cái Răng.

Trung tâm TGPL số 5 TGPL ngoài trụ sở cho người dân khu vực 3, phường Ba Láng, quận Cái Răng.

Theo quy định của Luật TGPL, tổ chức thực hiện TGPL bao gồm trung tâm TGPL nhà nước và tổ chức tham gia TGPL (gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL và tổ chức đăng ký tham gia TGPL). Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp, do UBND cấp tỉnh thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Trung tâm TGPL nhà nước có thể có chi nhánh và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của chi nhánh. Căn cứ nhu cầu và điều kiện thực tế tại địa phương, chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập chi nhánh của trung tâm TGPL nhà nước. Tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp theo quy định của Luật TGPL. Tổ chức đăng ký tham gia TGPL bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đăng ký tham gia TGPL theo quy định của Luật TGPL.

Tổ chức thực hiện TGPL có quyền và nghĩa vụ sau đây: thực hiện TGPL; đề nghị cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu về vụ việc TGPL; bồi thường thiệt hại do lỗi của người thuộc tổ chức mình gây ra trong khi thực hiện TGPL; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo, truyền thông về TGPL; giải quyết khiếu nại theo quy định tại khoản 2 Ðiều 45 của Luật TGPL; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến giải quyết vụ việc TGPL.

Trung tâm TGPL nhà nước có quyền thực hiện các nhiệm vụ khác do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về TGPL ủy quyền hoặc yêu cầu. Tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL có quyền được nhận thù lao và chi phí thực hiện vụ việc TGPL theo quy định của Chính phủ; quyền và nghĩa vụ khác theo hợp đồng thực hiện TGPL. Tổ chức đăng ký tham gia TGPL có nghĩa vụ thực hiện TGPL theo nội dung đăng ký.

Hợp đồng thực hiện TGPL được ký kết giữa Sở Tư pháp với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và giữa Trung tâm TGPL nhà nước với luật sư, cộng tác viên TGPL về việc thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật về dân sự. Căn cứ yêu cầu TGPL và thực tiễn tại địa phương, Sở Tư pháp lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với tổ chức có nguyện vọng và có đủ điều kiện sau đây: có lĩnh vực đăng ký hoạt động phù hợp với lĩnh vực TGPL theo quy định của Luật TGPL; là tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức tư vấn pháp luật có ít nhất 1 tư vấn viên pháp luật có 2 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên hoặc 1 luật sư làm việc thường xuyên tại tổ chức; có cơ sở vật chất phù hợp với hoạt động TGPL; không đang trong thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật.

Trung tâm TGPL nhà nước căn cứ vào nhu cầu TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL tại địa phương, lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với luật sư có đủ điều kiện sau đây: không đang trong thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề luật sư; không bị cấm hành nghề hoặc bị hạn chế hoạt động nghề nghiệp theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền; không đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đang làm việc hoặc cơ quan, tổ chức mà luật sư ký kết hợp đồng lao động. Trung tâm TGPL nhà nước lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với cộng tác viên TGPL theo quy định tại Ðiều 24 của Luật TGPL. Tổ chức, cá nhân đã thực hiện hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1 Ðiều 6 của Luật TGPL thì không được lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL trong thời gian ít nhất là 2 năm kể từ ngày có kết luận vi phạm.

Tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL chấm dứt thực hiện TGPL khi không còn đáp ứng một trong các điều kiện ký kết hợp đồng thực hiện TGPL quy định tại khoản 2 Ðiều 14 của Luật TGPL; chấm dứt theo hợp đồng thực hiện TGPL hoặc thực hiện TGPL gây hậu quả nghiêm trọng; chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.

Tổ chức đăng ký tham gia TGPL chấm dứt thực hiện TGPL khi không còn đáp ứng một trong các điều kiện đăng ký tham gia TGPL quy định tại khoản 1 Ðiều 15 của Luật TGPL; tự chấm dứt tham gia TGPL sau khi đã thông báo bằng văn bản với Sở Tư pháp nơi đăng ký tham gia TGPL; không thực hiện TGPL trong 2 năm liên tục, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan; thực hiện TGPL gây hậu quả nghiêm trọng; chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật.

Khi chấm dứt thực hiện TGPL, tổ chức tham gia TGPL có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Sở Tư pháp về việc chấm dứt thực hiện TGPL và chuyển hồ sơ vụ việc chưa hoàn thành đến tổ chức thực hiện TGPL được Sở Tư pháp giao để tiếp tục thực hiện.

Bài, ảnh: Hoàng Yến

Nguồn Cần Thơ: https://baocantho.com.vn/quyen-va-nghia-vu-cua-to-chuc-thuc-hien-tro-giup-phap-ly-a127306.html