Quyền và nghĩa vụ của người làm chứng

Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.

Người làm chứng phải trình bày trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và lý do biết được những tình tiết đó.

Pháp luật quy định cụ thể những người không được làm chứng. Đó là người bào chữa của người bị buộc tội; Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.

BLTTHS cũng quy định người làm chứng có quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định. Họ có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa.

Bên cạnh đó, người làm chứng cũng có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia làm chứng và được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật.

Người làm chứng tại một phiên tòa

Có thể nói, lời khai của nhân chứng trong một số vụ án hình sự có thể là những tình tiết quan trọng giúp làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Đây cũng là nghĩa vụ của người làm chứng được quy định rõ tại điểm b, khoản 4, Điều 55 BLTTHS 2003 (đang có hiệu lực thi hành) và điểm b, khoản 4, Điều 66 BLTTHS 2015 (có hiệu lực thi hành từ 1/1/2018).

Trong một số vụ án, các nhân chứng đã có những lời khai hoàn toàn trái ngược với những gì họ đã khai với cơ quan điều tra trước đây. Việc người làm chứng thay đổi lời khai, làm cho vụ án thêm phức tạp nhưng cũng đã góp phần làm rõ một số tình tiết quan trọng có thể giúp làm sáng tỏ vụ án.

Tuy nhiên, nếu các lời khai này qua xác minh, giám định, xác định là không đúng sự thật, cố tình bịa đặt, cung cấp tài liệu giả mạo, gian dối nhằm chuyển hướng dư luận, nhiễu loạn thông tin, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của các cơ quan tố tụng thì những người thực hiện hành vi này sẽ phải chịu chế tài hình sự theo Điều 307 hoặc 308 BLHS. Bởi lẽ, Điều 55 BLTTHS quy định về nghĩa vụ người làm chứng: Khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án. Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của BLHS; khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của BLHS.

Theo quy định tại Điều 307 BLHS 1999 thì người làm chứng có thể chịu trách nhiệm hình sự về hành vi khai báo gian dối với mức cao nhất là 7 năm tù giam. Các mức phạt cụ thể đối với hành vi người làm chứng khai báo gian dối như sau:

Người làm chứng mà khai gian dối hoặc cung cấp những tài liệu mà mình biết rõ là sai sự thật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm;

Nếu khai gian dối có tổ chức hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì người làm chứng đó sẽ bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm (tính chất gây hậu quả nghiêm trọng được BLHS 2015 giải thích cụ thể hơn là “dẫn đến việc kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm”);

Nếu người làm chứng khai gian dối gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm (BLHS 2015 nêu rõ hơn về trường hợp phải chịu mức phạt này đó là khi người phạm tội thuộc 1 trong 2 trường hợp: Phạm tội 2 lần trở lên; và dẫn đến việc kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm).

Ngoài ra, người làm chứng thực hiện hành vi khai báo gian dối ngoài các mức phạt trên còn có thể chịu hình phạt bổ sung đó là: Bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Còn đối với Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu thì người nào từ chối khai báo nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 22 BLHS hoặc trốn tránh việc khai báo, việc kết luận giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm.Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Theo Báo Công Lý

Nguồn Pháp Luật Net: http://phapluatnet.vn/thu-vien-phap-luat/quyen-va-nghia-vu-cua-nguoi-lam-chung