Quản trị doanh nghiệp phản ánh và thực thi giá trị của công ty

Quản trị doanh nghiệp là tập hợp các phương thức được sử dụng để quản lý mối quan hệ giữa các bên liên quan và xác định, kiểm soát định hướng chiến lược, hiệu quả hoạt động của các tổ chức.

Về cốt lõi, quản trị doanh nghiệp quan tâm đến việc xác định những phương pháp để đảm bảo rằng các quyết định chiến lược được đưa ra một cách hiệu quả. Quản trị cũng có thể được coi là một phương tiện mà các tập đoàn sử dụng để thiết lập trật tự giữa các bên (chủ sở hữu công ty và các nhà quản lý cấp cao) có thể xung đột về lợi ích. Do đó, quản trị doanh nghiệp phản ánh và thực thi giá trị của công ty.

 Hệ thống quản trị doanh nghiệp, bộ khung cho mọi hoạt động của công ty. Ảnh: Bbamantra.

Hệ thống quản trị doanh nghiệp, bộ khung cho mọi hoạt động của công ty. Ảnh: Bbamantra.

Trong các tập đoàn hiện đại, đặc biệt là tại Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, mục tiêu chính của quản trị doanh nghiệp là đảm bảo lợi ích của các nhà quản lý cấp cao, phù hợp với lợi ích của các cổ đông. Quản trị doanh nghiệp liên quan đến việc giám sát trong các lĩnh vực mà chủ sở hữu, người quản lý và thành viên hội đồng quản trị có thể có xung đột lợi ích. Các xung đột này có thể bao gồm việc bầu cử giám đốc, giám sát chung về lương quản lý và giám đốc điều hành, cơ cấu tổng thể và định hướng chiến lược của tập đoàn.

Quản trị doanh nghiệp tại Đức

Ở nhiều công ty tư nhân của Đức, chủ sở hữu và người quản lý có thể là một cá nhân. Trong những trường hợp này, không có nhiều vấn đề xảy ra. Ngay cả trong các tập đoàn đại chúng của Đức, một cổ đông duy nhất thường chiếm ưu thế. Do đó, sự tập trung quyền sở hữu là một phương tiện quan trọng của quản trị doanh nghiệp ở Đức, điều này cũng giống trường hợp của Hoa Kỳ. Trong lịch sử, các ngân hàng chiếm trung tâm trong cấu trúc quản trị doanh nghiệp Đức, cũng như trường hợp ở nhiều nước châu Âu khác như Ý và Pháp.

Hệ thống quản trị doanh nghiệp hai tầng của Đức. Ảnh: Wikipedia.

Các ngân hàng trở thành cổ đông lớn khi các công ty mà họ cho vay trước đó tìm kiếm nguồn tài trợ trên thị trường chứng khoán hoặc gặp tình trạng vỡ nợ. Mặc dù các cổ phần thường ít hơn 10%, tuy vậy giới hạn pháp lý duy nhất về số lượng cổ phiếu của một công ty mà các ngân hàng có thể nắm giữ không thể vượt quá 15% vốn ngân hàng. Thông qua các cổ phần nắm giữ và bằng cách ủy quyền cho các cổ đông nắm giữ cổ phần với các ngân hàng, ba ngân hàng Deutsche Deutsche, Netherdner và Commerzbank đã nắm giữ quyền lực đáng kể.

Tuy các cổ đông có thể nói với các ngân hàng cách bỏ phiếu cho vị trí sở hữu của họ, nhưng nhìn chung họ không làm như vậy. Một sự kết hợp giữa nắm giữ riêng cổ phần của các ngân hàng và kết quả ủy quyền dẫn đến số lượng lớn cổ phần trong nhiều công ty Đức thuộc về 3 ngân hàng này. Các ngân hàng cùng với những người khác sẽ giám sát và kiểm soát các nhà quản lý, cả với tư cách là người cho vay và với tư cách là cổ đông, bằng cách bầu đại diện vào các ban giám sát. Các công ty Đức với hơn 2.000 nhân viên được yêu cầu phải có một cấu trúc hội đồng hai tầng đặt trách nhiệm giám sát và kiểm soát các quyết định và hành động quản lý (hoặc giám sát) trong tay một nhóm riêng biệt.

Ngân hàng Deutsche là cổ đông lớn của nhiều công ty. Ảnh: FT.

Tất cả các chức năng của chỉ đạo và quản lý là trách nhiệm của ban quản lý (Vorstand), nhưng việc bổ nhiệm vào Vorstand là trách nhiệm của cấp giám sát (Aufsichtsrat). Nhân viên, thành viên tổ chức và cổ đông sẽ bổ nhiệm các thành viên vào Aufsichtsrat. Có quan điểm cho rằng cấu trúc này giúp ngăn chặn các hành động sai trái của công ty và các quyết định vội vàng của các ‘CEO chuyên quyền’. Tuy nhiên, các nhà phê bình cho rằng cơ chế này sẽ làm chậm quá trình ra quyết định và thường ràng buộc CEO.

Ở Đức, việc chia sẻ quyền lực có thể đã đi quá xa vì nó gồm đại diện từ cộng đồng địa phương cũng như các đoàn thể. Theo đó, khuôn khổ quản trị doanh nghiệp ở Đức đã gây khó khăn cho việc tái cấu trúc các công ty nhanh chóng nếu so với cấu trúc quản trị doanh nghiệp tại Hoa Kỳ khi kết quả kinh doanh gặp vấn đề.

Đó là trường hợp của EADS, cha đẻ của Airbus. Một phần trong những khó khăn của Airbus xuất phát từ những thách thức gặp phải trong quá trình tái cấu trúc do sự phức tạp của quản trị doanh nghiệp không chỉ ở Đức mà cả ở Pháp. Do vai trò của chính quyền địa phương (thông qua cơ cấu hội đồng quản trị) và quyền lực của các ngân hàng trong cơ cấu quản trị doanh nghiệp của Đức, các cổ đông tư nhân hiếm khi có vị trí sở hữu lớn trong các công ty Đức.

Các tổ chức lớn chẳng hạn như quỹ hưu trí và các công ty bảo hiểm, cũng là chủ sở hữu không đáng kể của cổ phiếu công ty. Do đó trong lịch sử các giám đốc điều hành của Đức thường không ưu tiên cho việc tối đa hóa giá trị cổ đông xảy ra ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên, quản trị doanh nghiệp ở Đức đang thay đổi một phần do sự toàn cầu hóa kinh doanh ngày càng tăng.

Nguồn TGTT: https://thegioitiepthi.vn/quan-tri-doanh-nghiep-phan-anh-va-thuc-thi-gia-tri-cua-cong-ty-158569.html