'Phương pháp mã hóa và giải mã video phân tán' được cấp bằng độc quyền sáng chế

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn tại Việt Nam và sự phát triển về kỹ thuật mã hóa video phân tán (DVC) trên thế giới, nhóm nghiên cứu đã phát triển mô hình mã hóa ứng dụng cho mạng thế hệ mới nêu trên (IoT, WVSN, CSS…).

TS Đinh Triều Dương và “phương pháp mã hóa và giải mã video phân tán” được cấp bằng độc quyền sáng chế năm 2019

TS Đinh Triều Dương và “phương pháp mã hóa và giải mã video phân tán” được cấp bằng độc quyền sáng chế năm 2019

Sau 5 năm nghiên cứu,“Kỹ thuật mã hóa và giải mã video phân tán DVC” thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của Khoa Điện tử - Viễn thông do TS. Đinh Triều Dương làm Trưởng nhóm, đã được Cục Sở Hữu trí tuệ cấp bằng sáng chế độc quyền vào năm 2019.

Hào hứng nói về những điểm mạnh của sáng chế “Phương pháp mã hóa và giải mã video phân tán DVC”, TS Đinh Triều Dương cho biết, so với kỹ thuật mã hóa video truyền thống, kỹ thuật mã hóa video phân tán (DVC) có một số điểm mạnh như: độ phức tạp thuật toán nhỏ, có thể triển khai trên các thiết bị mã hóa là các cảm biến sensor có cấu hình thấp, giá thành rẻ tại đầu phát (Encoder), trong khi vẫn đảm bảo được hiệu năng mã hóa và chất lượng hình ảnh tốt tại đầu thu (Decoder) ...

Các thế mạnh này cũng là các yêu cầu rất quan trọng đối với một số hệ thống mạng đang triển khai và thịnh hành hiện nay như: mạng IoT, mạng cảm biến không dây (WVSN), hay hệ thống mạng camera giám sát (CSS)…

Với các hệ thống mạng này thì các kỹ thuật mã hóa video truyền thống theo các chuẩn nén hiện có như H.264/AVC, H.265/HEVC, hay tương lai là H.266/FVC sẽ gặp nhiều hạn chế khi triển khai, đặc biệt là yêu cầu bộ mã hóa Encoder (thông thường là các Server) có cấu hình thấp hay giá thành rẻ là khó khả thi.

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn tại Việt Nam và sự phát triển về kỹ thuật mã hóa video phân tán (DVC) trên thế giới, nhóm nghiên cứu đã phát triển mô hình mã hóa ứng dụng cho mạng thế hệ mới nêu trên (IoT, WVSN, CSS…).

Từ những năm 2000, kỹ thuật mã hóa video phân tán DVC đã phát triển mạnh mẽ trên thế giới như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật, châu Âu… nhưng ở Việt Nam, các nghiên cứu về mã hóa video nói chung và mã hóa DVC nới riêng chưa nhiều và gặp nhiều hạn chế.

“Với sự nỗ lực của các thành viên trong nhóm kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà trường và ĐGQGHN thông qua đề tài QG, nhóm đã có được một số kết quả ban đầu cho kỹ thuật mã hóa khá mới mẻ này.

So với các bộ mã hóa video phân tán truyền thống hiện có trên thế giới, bộ mã hóa đề xuất đã đạt được một số kết quả mới bước đầu với hiệu xuất mã hóa thu được là cao hơn, chất lượng hình ảnh tốt hơn và đặc biệt hình ảnh hiển thị tại đầu thu có chất lượng ổn định hơn”, TS Đinh Triều Dương cho hay.

TS Dương cũng cho biết, giống như những nhóm nghiên cứu khác nhóm cũng đã gặp những khó khăn trong lĩnh vực xử lý và truyền thông ảnh/video. Bởi vì đây là lĩnh vực nghiên cứu tương đối khó, đòi hỏi nhiều kiến thức liên quan đến các giải thuật tối ưu, các chuẩn mã hóa ảnh/video phức tạp, các yêu cầu về xử lí thời gian thực (Real time processing)...

Các chuẩn nén ảnh/video hiện đại thường xuyên có sự cập nhật, nâng cấp trong khi cộng đồng nghiên cứu về lĩnh vực xử lý và truyền thông các chuẩn nén ảnh/video ở Việt Nam còn khá mỏng.

Do vậy, lực lượng tham gia triển khai, thu được kết quả mới từ các nghiên cứu về xử lý ảnh/video phân tán gặp một số khó khăn khi triển khai ở Việt Nam.

Trong khi đó, kỹ thuật mã hóa video phân tán DVC là kỹ thuật mới dựa trên cách tiếp cận hoàn toàn mới so với các cách tiếp cận truyền thống hiện có nên các công cụ hỗ trợ cho kỹ thuật này rất hạn chế.

Bởi vậy, trong quá trình nghiên cứu và triển khai, các thành viên của nhóm nghiên cứu đã phải nỗ lực, mất nhiều thời gian và công sức để kế thừa một số công cụ đã có và tự phát triển thêm các công cụ và kỹ thuật mới khác.

Tuy nhiên, từ các kết quả nghiên cứu đạt được, nhóm nghiên cứu bắt đầu nộp hồ sơ xin cấp bằng độc quyền sáng chế về “Kỹ thuật mã hóa và giải mã video phân tán DVC” từ năm 2017. Năm 2019, sau các nỗ lực của nhóm, nhóm nghiên cứu đã nhận được bằng sáng chế này.

Việc nhận được bằng sáng chế tạo động lực nghiên cứu và sáng tạo cho các nhóm nghiên cứu nói chung,nhất là cho các nhóm nghiên cứu mạnh. Ngoài ra, góp phần tăng chỉ số đổi mới sáng tạo quốc gia, chỉ số về số lượng các bằng độc quyền sáng chế hay giải pháp hữu ích.

Đây là một trong số các chỉ số đánh giá về sản phẩm khoa học công nghệ hiện được ĐHQGHN và các trường đại học trên thế giới quan tâm. Bên cạnh đó, bằng độc quyền sáng chế được bảo hộ trong 20 năm giúp nhóm nghiên cứu bảo hộ được “chất xám” nghiên cứu hoặc một số sáng chế khác có liên quan.

Nói về định hướng phát triển của sáng chế trong tương lai, TS Đinh Triều Dương cho biết, một số các module của kỹ thuật mã hóa và giải mã video phân tán DVC hiện đã được các nhóm nghiên cứu của GS. Fernando Pereira (ĐH Lisbon, Bồ Đào Nha) và nhóm nghiên cứu của GS. Byungwoo Jeon (ĐH Sungkyunkwan, Hàn Quốc) triển khai thử nghiệm thành công trên nền tảng phần cứng gồm các hệ thống phần cứng thực hiện xử lý và truyền thông mã hóa video phân tán: Khối mã hóa (DVC Encoder) và giải mã (DVC Decoder).

Bên cạnh đó, một số công ty cũng rất quan tâm tới công nghệ này như công ty Vocal Technologies. Nhóm nghiên cứu luôn sẵn sàng chuyển giao.

TS Đinh Triều Dương cũng nhấn mạnh, tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã xây dựng và thử nghiệm trên hệ thống máy tính và một số nền tảng phần cứng cấu hình thấp, và hướng phát triển tương lai sẽ triển khai thí nghiệm bộ mã hóa video DVC trên hệ thống cảm biến không dây.

Trong thời gian tới, nhóm tiếp tục triển khai nghiên cứu sâu và phát triển để có thêm các kết quả mới cho hệ thống mã hóa video phân tán này.

Tuyết Anh

Nguồn Infonet: https://infonet.vietnamnet.vn/thi-truong-khcn/phuong-phap-ma-hoa-va-giai-ma-video-phan-tan-duoc-cap-bang-doc-quyen-sang-che-262517.html