Phụ nữ làm khoa học: Nốt lặng sau những vinh quang

'Tôi không thể nào làm khác được, khi 5h30 sáng đã rời khỏi nhà và trở về khi đồng hồ điểm 11h đêm. Chăm sóc con ư, cái đó tôi chịu rồi. Cả cuộc đời tôi vẫn ân hận vì điều đó. May con tôi không hư.

Ở tuổi 85, GS-TSKH Hoàng Xuân Sính vẫn dành thời gian nghiên cứu toán học và làm công tác đào tạo tại Trường ĐH Thăng Long.

Ở tuổi 85, GS-TSKH Hoàng Xuân Sính vẫn dành thời gian nghiên cứu toán học và làm công tác đào tạo tại Trường ĐH Thăng Long.

Tôi đã rất nhiều lần ngồi cắt nghĩa, cứ nghĩ mãi tại sao mình có thể dễ dàng giải những phép toán hóc búa, mà loay hoay không biết tổ chức, lập trình cuộc đời mình. Làm sao để vừa có thời gian chăm con, lo cho con những cái tối thiểu nhất là miếng ăn, giấc ngủ hằng ngày. Tôi hoàn toàn không chăm nom được con tôi một chút nào. Bây giờ tôi vẫn ân hận lắm. May mà con tôi không hư. Con tôi biết thương mẹ…”.

Bà chậm rãi nói những lời gan ruột , nước mắt không chảy mà nghẹn nơi cổ họng. Chúng tôi ngồi đối diện, sống mũi cay cay. Trong mắt bà lúc đó có lẽ dâng đầy sự day dứt…

Bà là GS-TSKH-Nhà giáo nhân dân Hoàng Xuân Sính - người phụ nữ nước ngoài đầu tiên đến Paris bảo vệ thành công luận án tiến sĩ quốc gia về Toán học, là nữ Giáo sư toán học đầu tiên của Việt Nam, biên soạn nhiều sách giáo khoa đại học và phổ thông, một trong những người sáng lập ra Trường ĐH Thăng Long, trường ĐH dân lập đầu tiên ở Việt Nam.

Bà cũng là người góp phần chủ yếu vào việc hình thành giải thưởng Kovalevskaya vinh danh các nhà khoa học nữ ở Việt Nam… Cả sự nghiệp của bà gắn với Toán, giáo dục và thúc đẩy phụ nữ làm khoa học.

Nhưng đằng sau vinh quang ấy, là những nốt lặng.

Clip lời gan ruột từ nữ toán học đầu tiên của Việt Nam ngày 8.3. Video: Dung Hà

Ngày 8.3, bà kể về cuộc đời mình, một người làm khoa học, một phụ nữ làm khoa học:

Những cuộc đánh đổi

Tôi may mắn hơn nhiều nhà khoa học nữ khác, khi sinh ra trong trong một gia đình có truyền thống hiếu học và có những người phụ nữ dũng cảm đấu tranh để tôi được đi học. Bà nội tôi chẳng biết chữ gì cả, vì thời đó con gái không được đi học. Mẹ tôi chỉ đọc được chữ Hán, tiếng Việt mới biết đánh vần. Các cô cũng vậy, chỉ được học về công-dung-ngôn-hạnh.

Vậy mà mẹ tôi luôn có niềm tin và quyết tâm phải cho tôi đi học. Thế nào mẹ thuyết phục được bố. Khi tôi lên 8 thì bà mất, bố tôi thực hiện tâm nguyện của mẹ, cho tôi đi học gửi tôi sang Pháp. Rồi tôi vào đại học, sau đó lấy bằng thạc sĩ về toán học ở nước ngoài.

Sự nghiệp đang rộng mở, nhưng đến năm 1960 hưởng ứng phong trào kêu gọi trí thức người Việt đang sinh sống ở nước ngoài về nước để gây dựng nền khoa học nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôi quyết định trở về.

Lần đó là một sự đánh đổi, khi tôi về mà chỉ có con trai nhỏ về cùng…

Tôi vào giảng dạy môn Toán và nghiên cứu khoa học tại Trường ĐH Sư Phạm Hà Nội. Nghĩ lại thời đó cực lắm. Nhà tôi ở phố Hàng Bông, hằng ngày lóc cóc đạp xe 10km đến trường giảng dạy. Để 6h30 có mặt ở trường, hơn 5h sáng tôi phải rời nhà đi. Thời đó cũng họp hành liên miên. Nhiều hôm 11h đêm tôi mới về đến nhà, khi con đã say giấc. Có hai mẹ con nương tựa vào nhau, nhưng tôi hoàn toàn không chăm nom được con tôi một chút nào.

Tôi đi tối ngày, làm sao chăm sóc được. Từ thời học vỡ lòng, con tự phải đi học tại trường trong khu phố mà không có ai dẫn đi. Tan trường thì lông bông ngoài đường với trẻ con cùng phố, tối về tự ăn,tự ngủ. Đó là một ân hận của cuộc đời tôi. Tại sao lại bỏ mặc con như thế?

Tôi không thể nào làm khác được, nghiên cứu khoa học trở thành lẽ sống, và đi dạy mới có tiền, lo cho hai mẹ con có miếng ăn. Làm nghiên cứu khoa học nếu không dành 12 tiếng/ngày ở trong phòng thí nghiệm thì không thể làm nên chuyện gì. Tôi biết hiện nay Việt Nam có rất nhiều nhà hoa học nữ, họ rất giỏi, nhưng có lẽ đều trải qua những cuộc đánh đổi như thế. Tôi nể phục họ. Tôi may mắn khi con tự biết điều chỉnh, thành ra cuối cùng thuyền cũng đến bến. Nhiều đồng nghiệp nữ của tôi không được như thế.

Sau này con tôi trở thành một kiến trúc sư. Con cũng chưa bao giờ oán trách gì mẹ. Con chỉ nói là thương mẹ. Lúc đó tôi chỉ khóc…

GS Hoàng Xuân Sính trong một tiết dạy Toán.

Khó khăn mới là cuộc đời

So với nam giới, phụ nữ làm khoa học gặp khó khăn nhiều lắm. Thời tôi còn ở Pháp, trong câu lạc bộ các nhà khoa học nữ vẫn liên tục hỏi nhau: Tại sao chúng ta lại vất vả đến vậy? Cô bạn thân của tôi là một Giáo sư Vật lý, có chồng là một người nghiên cứu về Toán học.

Tưởng rằng cùng dân nghiên cứu sẽ hiểu cho công việc của nhau, nhưng cũng chỉ cố níu kéo được 8 năm là chia tay. Vì một lý do là cứ đến giờ nấu cơm là anh chồng lại bảo phải đi họp, căn đúng giờ chị vợ nấu xong là anh ta về nhà. Chị vợ đòi bình đẳng trong làm việc nhà không được, thế là chia tay.

Tôi nói thật đàn ông thời nào thì cũng ngại làm việc nhà. Họ nghĩ đó là ba việc của phụ nữ. Bao đời này, quan niệm đó vô tình trở thành một rào cản với phụ nữ chúng tôi, nhất là những người trót đam mê nghiên cứu khoa học.

Rồi một điều nữa là tư tưởng không muốn phụ nữ hơn mình vẫn tồn tại trong đầu nhiều người đàn ông. Ngay cả trong gia đình cũng thế thôi. Chồng hơn vợ thì không sao, mà vợ giỏi hay thành đạt hơn chồng là thể nào cũng sinh chuyện.

Ai may mắn thì được người bạn đời của mình thông cảm, nhưng số đấy ít lắm. Phần nhiều trong tư tưởng đàn ông vẫn có suy nghĩ không thích phụ nữ giỏi hơn mình. Có điều, chúng ta dần hướng tới một xã hội, mà ở đó người phụ nữ có thể tự quyết định mình thích cái gì, chứ không phải là làm theo những điều mà người ta thích phụ nữ làm.

GS Hoàng Xuân Sính.

Giờ các nhà khoa học nữ lợi hơn chúng tôi về vật chất, ít nhất có cái xe máy để đi. Có điện thoại liên lạc khi con cần cái gì đó. Rồi cũng được giải phóng khỏi việc nhà, khi có sự hỗ trợ của máy móc. Nhưng khi đâm vào khoa học thì vẫn cần phải hy sinh.

Bởi xưa và nay vẫn vậy, phụ nữ làm khoa học vẫn vất vả, khó khăn trăm bề. Không phải vì khoa học khó hay khổ, mà vì phải mò mẫm đi bóc tách, phá bỏ từng lớp rào cản trong nhận thức và định kiến của xã hội về người phụ nữ.

Nhưng đừng vì điều đó mà phụ nữ không dám dấn thân. Nếu may mắn giữ được hạnh phúc trọn vẹn là tốt, bằng không cũng không được bỏ cuộc. Cứ nghiên cứu, làm những việc mà mình yêu thích. Khó không phải là khổ. Khó để ta phải vượt thôi. Có khó, có khổ mới là cuộc đời…'.

Đặng Chung (ghi)

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://laodong.vn/xa-hoi/phu-nu-lam-khoa-hoc-not-lang-sau-nhung-vinh-quang-594741.ldo