Phát hiện sớm hai loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ Việt

Ung thư vú, ung thư cổ tử cung là 2 loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ Việt Nam, cướp đi mạng sống hàng nghìn người mỗi năm.

Gần 20.000 ca mắc mới mỗi năm

Theo thống kê của tổ chức Ghi nhận ung thư toàn cầu (Globocan) năm 2018, mỗi năm ở nước ta có hơn 15.200 ca ung thư vú (chiếm tỷ lệ 9,2% trong số các bệnh ung thư). Với ung thư cổ tử cung, những năm qua, Việt Nam trung bình có khoảng 4.200 ca mắc mới và có hơn 2.400 ca tử vong vì căn bệnh này mỗi năm.

Điều đáng nói là ung thư vú, ung thư cổ tử cung có thể điều trị khỏi hoàn toàn nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp. Phát hiện càng sớm thì việc điều trị càng đơn giản, hiệu quả, tỷ lệ chữa khỏi cao và chi phí thấp.

GS.TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K khẳng định nếu phát hiện bệnh ung thư vú ở giai đoạn đầu thì có thể chữa khỏi hoàn toàn. Bệnh nhân ung thư vú nếu phát hiện sớm ở giai đoạn I thì tỷ lệ sống trên 5 năm là 100%. Đến giai đoạn 4 thì thường quá trình điều trị chỉ để kéo dài cuộc sống, giảm các triệu chứng đau đớn.

Ung thư vú ở giai đoạn đầu thường không gây đau đớn và có thể không có triệu chứng gì. Tuy nhiên, nếu có 6 triệu chứng sau đây kéo dài hơn hai tuần, chúng có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư vú hoặc phụ khoa.

Cụ thể: Đau hoặc đỏ vú, tụt núm vú, da vùng vú bị lồi lõm, co kéo bất thường; Chảy dịch vú, thay đổi màu sắc trên da của vú, một bên vú dày chắc hơn bên kia; Có hạch nách hoặc hố thượng đòn; Chu kỳ kinh nguyệt bất thường, thay đổi thói quen tiểu tiện; Xuất huyết hoặc chảy dịch âm đạo bất thường; Đau hoặc chảy máu sau khi quan hệ tình dục, đau vùng xương chậu.

 Ô tô lưu động khám sàng lọc phát hiện sớm ung thư vú tại cộng đồng.

Ô tô lưu động khám sàng lọc phát hiện sớm ung thư vú tại cộng đồng.

Loại bỏ yếu tố nguy cơ, phòng hai bệnh ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ

Ung thư vú có thể gặp ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là những phụ nữ trên 40 tuổi. Theo GS Thuấn, những phụ nữ không sinh con và sinh con đầu lòng sau độ tuổi 30 có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn những người bình thường.

Những người mắc bệnh lý về tuyến vú: như xơ vú, áp – xe – vú… nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến những tổn thương khó hồi phục ở vùng vú và tiến triển thành ung thư.

Về tính di truyền, GS Thuấn cho hay trong gia đình nếu có bà, mẹ hay chị gái mắc ung thư vú thì tỷ lệ mắc ung thư vú của cá nhân đó sẽ cao hơn. Phần lớn các trường hợp ung thư vú do di truyền thường từ 2 gen BRCA1 và BRCA2. Những phụ nữ có đột biến gen BRCA1 và/hoặc BRCA2 có thể có đến 80% nguy cơ mắc bệnh.

Những chị em dậy thì sớm (trước 12 tuổi) và mãn kinh muộn (sau 55 tuổi) cũng có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn người khác. Nguyên nhân là do những phụ nữ này chịu tác động lâu dài của hormone estrogen và progesterone.

Đối với ung thư cổ tử cung, thủ phạm chính gây ung thư cổ tử cung (99,7%) là do virus HPV và được lây truyền qua đường tình dục. 70% trường hợp ung thư cổ tử cung phát hiện có chủng HPV 16 và 18.

Những phụ nữ trên 35 tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người ít tuổi hơn. Tuổi càng cao thì nguy cơ mắc bệnh càng tăng. Chị em nếu sinh con quá sớm (dưới 17 tuổi) khi cơ quan sinh sản chưa phát triển hết sẽ làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung. Bên cạnh đó, những người sinh đẻ nhiều lần (từ 3 lần trở lên) thì tỷ lệ mắc bệnh cao gấp hai lần so với những phụ nữ sinh 1 – 2 con.

Điểm chung giữa hai loại ung thư này, là thói quen, lối sống cũng góp phần làm tăng nguy cơ mắc bệnh, gồm: Béo phì, thuốc lá, uống nhiều rượu bia, lối sống sinh hoạt thiếu khoa học, quan hệ tình dục bừa bãi…

Đơn cử, phụ nữ béo phì thường sản sinh ra nhiều estrogen hơn so với phụ nữ khác. Béo phì không chỉ làm tăng nguy cơ dẫn đến ung thư vú, ung thư cổ tử cung mà còn làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, mỡ máu và các bệnh ung thư khác như ung thư buồng trứng, ung thư đại trực tràng, ung thư gan,…

Bên cạnh đó, chế độ ăn uống nhiều calo trong khi cơ thể lười vận động sẽ làm lượng mỡ thừa trong cơ thể tăng cao dẫn đến béo phì và làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú.

Hút thuốc lá, uống nhiều rượu bia cũng dễ dẫn đến ung thư vú. Đó là bởi, khi lượng cồn tăng cao sẽ tăng kích thích sản xuất estrogen, tạo thuận lợi cho sự phân chia tế bào, tăng nguy cơ ung thư vú.

Để phòng tránh nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, ung thư cổ tử cung, GS.TS Trần Văn Thuấn khuyên chị em cần có chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học, khám vú thường xuyên và chủ động tầm soát sớm bệnh.

Chị em nên áp dụng chế độ ăn uống khoa học, ăn nhiều rau củ quả là cách ngăn ngừa ung thư vú, ung thư cổ tử cung hiệu quả. Một số thực phẩm cần lưu ý như, hạn chế những thực phẩm chứa nhiều chất béo không có lợi cho sức khỏe như: Bánh ngọt, bánh pizza, xúc xích… ; Hạn chế đồ uống có cồn, đồ uống có ga; Bỏ thuốc lá và hạn chế tiếp xúc khói thuốc . Đặc biệt chị em nên đi khám sức khỏe định kỳ và tầm soát phát hiện sớm ung thư để có thể phát hiện bệnh điều trị kịp thời.

Theo Chương trình Sức khỏe Việt Nam đã được Thủ tướng phê duyệt, thì phát hiện sớm và quản lý một số bệnh không lây nhiễm (trong đó có ung thư) là một trong 11 nội dung ưu tiên giai đoạn 2018-2030. Trong đó, Chương trình đặt mục tiêu tới năm 2025, tăng tỷ lệ người thuộc đối tượng nguy cơ được khám phát hiện sớm ung thư (Ung thư vú, ung thư cổ tử cung và ung thư đại trực tràng) lên 40%, 5 năm sau tăng thêm 10%.

Khả Minh

Nguồn VTC: https://vtc.vn/phat-hien-som-hai-loai-ung-thu-thuong-gap-nhat-o-phu-nu-viet-d515840.html