Pháp luật các triều đại Việt Nam và các nước (Kỳ 5)

Trân trọng giới thiệu tiếp sách 'Pháp luật các triều đại Việt Nam và các nước' của TS Sử học Cao Văn Liên do Nhà xuất bản Thanh niên - HN - 2004 ấn hành.

Kỳ 5

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản pháp luật do cơ quan lập pháp của nhà nước ban hành. Đây là hình thức tiến bộ, văn bản nhiều, phong phú, kỹ thuật lập pháp cao, hoàn chỉnh và tương đối đồng bộ. Hình thức này tồn tại phổ biến trong pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa.

- Hình thức bên trong của pháp luật

Hình thức bên trong của pháp luật bao gồm các nguyên tắc của pháp luật. Đó là những tư tưởng cơ bản xuyên suốt nội dung của hệ thống pháp luật, chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật của nhà nước và công dân.

Hình thức bên trong của pháp luật còn bao gồm hình thức cấu trúc của pháp luật. Hình thức cấu trúc bao gồm các bộ phận như sau:

7. Hệ thống pháp luật

Là một chỉnh thể thống nhất các bộ phận hợp thành như ngành luật, chế định pháp luật, quy phạm pháp luật.

Ngành luật: Bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để xác định tính chất, nội dung và phạm vi của mỗi ngành luật phải dựa trên hai cơ sở: thứ nhất là đối tượng điều chỉnh tức là những quan hệ xã hội cùng loại cần được điều chỉnh, thứ hai là phương pháp điều chỉnh tức là cách thức tác động vào các mối quan hệ đó. Ngành luật là một trong ba thành tố tạo nên hệ thống pháp luật và là cấp độ thứ hai, sau hệ thống pháp luật.

Chế định pháp luật: Bao gồm một số quy định có những đặc điểm chung giống nhau để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng.

Quy phạm pháp luật: Là thành tố nhỏ nhất, là tế bào trong hệ thống cấu trúc của pháp luật. Quy phạm pháp luật vừa có tính khái quát, lại vừa có tính cụ thể. Nó có tính khái quát vì quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, áp dụng ở diện rộng, thời gian dài. Nó có tính cụ thể vì quy phạm pháp luật là hình mẫu, là chuẩn mực để điều chỉnh quan hệ xã hội trong trường hợp cụ thể.

Như vậy, trong hệ thống cấu trúc có thể thấy tế bào nhỏ nhất là quy phạm pháp luật, điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể. Nhiều quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau, điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tạo thành chế định pháp luật. Nhiều quy phạm pháp luật hay là nhiều chế định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại thì tạo thành ngành luật. Tất cả các ngành luật gồm nhiều quy phạm pháp luật, tức là nhiều chế định pháp luật tạo thành hệ thống pháp luật.

Quy phạm pháp luật là tế bào, là viên gạch xây dựng toàn bộ chế định, ngành luật, tức là xây dựng nên toàn bộ hệ thống pháp luật. Quy phạm pháp luật được cấu trúc bởi ba bộ phận:

Bộ phận thứ nhất là giả định, nó quy định địa điểm, thời gian, hoàn cảnh, tình huống, thực tế nếu gặp phải thì chủ thể phải hành động, không hành động (xử sự) theo quy tắc mà quy phạm pháp luật đặt ra. Giả định là xác định môi trường tác động của quy phạm pháp luật.

Bộ phận thứ hai của quy phạm pháp luật là quy định, đây là quy tắc, xử sự (hành động, không hành động) buộc mọi người phải thi hành khi xuất hiện các tình huống mà giả định đã nêu. Nếu xử sự không đúng quy tắc do quy phạm pháp luật đặt ra là vi phạm pháp luật.

Bộ phận thứ ba của quy phạm pháp luật là chế tài, tức là những biện pháp tác động (trừng phạt) mà nhà nước sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện đúng phần đã nêu ở quy định là phạm pháp. Chế tài là biện pháp, mức độ trừng phạt của nhà nước đối với kẻ vi phạm pháp luật.

Cần phân biệt quan hệ xã hội với quan hệ pháp luật. Nhà nước đặt ra pháp luật để bảo vệ các quan hệ tài sản, chế độ chính trị, xã hội, bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự nhân phẩm của công dân. Nhưng không phải có quy phạm pháp luật là có quan hệ pháp luật. Luật đã đặt ra nhưng phải có người phạm pháp, có hành vi vi phạm pháp luật tức là xảy ra sự kiện pháp lý và chủ thể có năng lực hành vi thì mới có quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội. Hình thức pháp lý này chỉ xuất hiện trên cơ sở sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật đối với quan hệ xã hội tương ứng và các bên tham gia quan hệ pháp luật đó đều mang những quyền và nghĩa vụ pháp lý được pháp luật nói trên quy định. Quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh gọi là quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật được phân thành nhiều nhóm lớn tương ứng với các ngành luật. Đó là quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật đất đai v.v... Tương ứng với các quan hệ pháp luật đó là các ngành luật dân sự, hình sự, luật đất đai v.v...

Trong lịch sử pháp luật chỉ đến thời đại tư bản và xã hội chủ nghĩa mới phân pháp luật thành các ngành luật. Như ở Việt Nam đến nay đã có 12 ngành luật:

1. Ngành luật nhà nước: Còn gọi là Luật Hiến pháp, bao gồm Hiến pháp và các bộ luật khác như luật tổ chức Quốc hội, tổ chức Chính phủ v.v... Hiến pháp là đạo luật cơ bản và các bộ luật khác ra đời trên cơ sở của Hiến pháp. Nội dung chính bao gồm của tất cả các văn bản quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, chế độ bầu cử các cơ quan nhà nước, quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngành luật nhà nước là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật, bởi vì nó điều chỉnh quan hệ xã hội quan trọng nhất của quốc gia, vì tất cả những ngành luật khác chỉ được hình thành thành trên cơ sở những nguyên tắc của luật nhà nước.

2. Luật Hành chính: Bao gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành, điều hành của nhà nước trên các lĩnh vực hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Luật này quy định những nguyên tắc, những hình thức và phương pháp quản lý nhà nước, điều chỉnh các hoạt động của các công chức nhà nước, thủ tục hành chính và trách nhiệm hành chính.

3. Luật Tài chính: Bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động tài chính của nhà nước như việc lập dự án, phê chuẩn dự án ngân sách và sử dụng ngân sách nhà nước, về hoạt động tín dụng, kiểm tra và cho vay tín dụng, việc quy định và thu thuế, việc thanh toán, quyết toán qua ngân hàng và tổ chức tài chính khác của nhà nước.

4. Luật Đất đai: Là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ quản lý và sử dụng ruộng đất trong đó đất đai là tư liệu sản xuất thuộc sở hữu nhà nước, do nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch và kế hoạch chung.

5. Luật Dân sự: Gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân phi tài sản. Luật Dân sự bao gồm các quy định về quyền sở hữu, chế định về hợp đồng dân sự, về quyền thừa kế, về quyền tác giả.

6. Luật Lao động: Là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các qua hệ xã hội phát sinh giữa người lao động với người sử dụng lao động (cá nhân hoặc tổ chức), đó là mối quan hệ giữa công nhân với xí nghiệp, giữa công đoàn với Ban quản lý xí nghiệp với cơ quan Nhà nước liên quan đến việc sử dụng lao động của công nhân viên chức.

Các chế định cơ bản của Luật Lao động bao gồm: Chế định tuyển dụng và thôi việc, chế định tiền lương, chế định thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi, chế định khen thưởng và kỷ luật lao động, chế định bảo vệ lao động.

7. Luật Hôn nhân gia đình: Bao gồm tổng thể quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn nam nữ như là điều kiện kết hôn; quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, nhằm mục đích bảo đảm chế độ hôn nhân tự do, tiến bộ, quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Luật Hôn nhân gia đình và nhà nước Việt Nam nhằm bảo đảm xây dựng hạnh phúc gia đình, bảo vệ quyền lợi của bà mẹ, trẻ em, chăm sóc và giáo dục con cái.

8. Luật Hình sự: Là tổng thể những quy phạm pháp luật quy định hành vi nào là tội phạm, mục đích của hình phạt và những điều kiện áp dụng hình phạt, hình thức và mức độ phạt đối với người có hành vi phạm tội.

9. Luật Tố tụng hình sự: Gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong việc điều tra, xét xử và kiểm sát việc điều tra xét xử những vụ án hình sự. Luật này cũng quy định những nguyên tắc, thủ tục và điều kiện để tiến hành điều tra, kiểm sát và xét xử các vụ án hình sự, luật cũng quy định quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng hình sự.

10. Luật Tố tụng dân sự: Là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội giữa các cơ quan xét xử, viện kiểm sát nhân dân các cấp, đương sự và những người tham gia khác trong quá trình điều tra xét xử vụ án dân sự. Luật này cũng quy định thẩm quyền xét xử trình tự, thủ tục xét xử và những vấn đề khác nhằm giải quyết đúng đắn các vụ tranh chấp dân sự.

11. Luật Kinh tế: Là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình quản lý, lãnh đạo hoạt động kinh tế của nhà nước và trong hoạt động kinh doanh, giữa các tổ chức và đơn vị kinh tế.

12. Luật Quốc tế: Là những quy phạm pháp luật quốc tế được hình thành trên cơ sở giữa các quốc gia và thể hiện ý chí của các quốc gia đó.

Luật Quốc tế bao gồm 2 bộ phận: Công pháp quốc tế và Tư pháp quốc tế.

Công pháp quốc tế là tổng hợp những nguyên tắc, những chế định, những quy phạm được các quốc gia xây dựng trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện và bình đẳng nhằm điều chỉnh các quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia.

Tư pháp quốc tế bao gồm những nguyên tắc và những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự nảy sinh giữa các công dân, các tổ chức các nước khác nhau.

(Còn nữa)
CVL

TS Cao Văn Liên

Nguồn Văn Hiến: http://vanhien.vn/news/phap-luat-cac-trieu-dai-viet-nam-va-cac-nuoc-ky-5-83411