Phân xã TTXGP Trung Trung bộ và những kỷ niệm không quên

Trong cuốn hồi ký, ông Hoàng Minh Thắng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng, dành 17 trang kể tường tận về trận đầu thắng Mỹ lẫy lừng ấy, trong đó có 2 trang về nghiệp vụ của phóng viên TTX.

Phóng viên Thanh Phong của TTXGP tại Quảng Trị (bên phải) nói chuyện với một gia đình nuôi cán bộ cách mạng tại thị xã Quảng Trị năm 1968. (Ảnh: TTXVN)

Phóng viên Thanh Phong của TTXGP tại Quảng Trị (bên phải) nói chuyện với một gia đình nuôi cán bộ cách mạng tại thị xã Quảng Trị năm 1968. (Ảnh: TTXVN)

Phóng viên Thông tấn xã với trận đầu thắng đế quốc Mỹ

Ông Hoàng Minh Thắng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng, khi còn ở quân đội là Chỉ huy trưởng trận Núi Thành ngày 26/5/1965, tiêu diệt gọn một đại đội thuộc Sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ.

Trong cuốn hồi ký dày 392 trang nhan đề: “Nơi ấy tôi đã sống” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tháng 5/2003, ông đã dành 17 trang để kể tường tận về trận đầu thắng Mỹ lẫy lừng ấy, trong đó hai trang 111 và 112 có đoạn khá lý thú nói về việc thực hiện nghiệp vụ của phóng viên Thông tấn xã như sau:

“... Sau trận đánh tôi được điện về Khu báo cáo tình hình. Vừa đến cơ quan Quân khu đóng ở Nước Trắng, Trà My, anh Hai Mạnh (đồng chí Chu Huy Mân) hồi đó là Tư lệnh Quân khu V cho gọi chúng tôi gặp ngay. Anh Hai ân cần mời chúng tôi uống trà rồi vui vui nói:

- Các ông giỏi lắm. Chúc mừng các ông. Nhưng mình lại nhận được điện khen của anh Thanh (Đại tướng Nguyễn Chí Thanh) trước khi nhận được báo cáo của các ông điện về Quân khu.

Chúng tôi chuyện trò sôi nổi về trận đánh, về cái sự kỳ lạ Trung ương Cục lại nhanh chóng nhận được tin trận đánh Núi Thành trước cả Quân khu. Sau này mới biết vì có một đồng chí phóng viên Thông tấn xã đi theo trận đánh đã điện vào Trung ương Cục bài tường thuật trận đánh. Anh em kể lại, lúc đó đồng chí Nguyễn Chí Thanh đang ngồi trên võng cá nhân mắc trong rừng cao su Lộc Ninh, khi đọc xong bài tường thuật vừa nhận đã nhảy xuống khỏi võng, thảo điện khen ra Quân khu V. Trong lúc đó báo cáo của chúng tôi về Quân khu bằng đài 15W thì chưa dịch xong mật mã.”

Đến gặp người cựu phóng viên Thông tấn xã đã nghỉ hưu và đang sống tại Hà Nội để tặng cuốn sách, ông Hoàng Minh Thắng tỏ ý tiếc đã không nhớ thật chính xác họ tên người phóng viên để đưa vào sách.

Phóng viên cảm ơn và nói: “Cánh phóng viên Thông tấn xã chúng tôi có mấy khi nêu tên đâu. Anh có nhã ý nhắc tới hoạt động của Thông tấn xã vào một thời điểm lịch sử như vậy là đã quý lắm rồi.”

Hưởng gió đồng bằng

Với phong trào quần chúng rầm rộ nổi dậy phá “ấp chiến lược” và các cuộc tiến công địch dồn dập suốt năm 1964, kết thúc bằng chiến thắng lớn An Lão, tỉnh Bình Định, vào cuối năm đó, một vùng trung du và đồng bằng rộng lớn ở Trung Trung bộ đã được giải phóng, tạo thuận lợi cho các cơ quan khu V rời rừng núi, chuyển tới những vùng áp sát địch hơn.

Và thế là sau Tết Ất Tỵ (1965), sau khi thịt sạch heo gà, chúng tôi ở phân xã Thông tấn xã giải phóng cùng với toàn thể anh chị em ở Ban Tuyên huấn Khu thực hiện “hạ sơn” với tâm trạng phấn chấn, chắc mẩm phen này đi luôn về Đà Nẵng.

Chúng tôi tới đóng ở xã Kỳ Yên, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Cũng như nhiều vùng khác ở Trung Trung bộ, xã vừa trải qua một cơn bão lũ dữ dội cuối năm trước, nên Ban và phân xã phải thu xếp thì giờ vừa đảm bảo công tác chuyên môn vừa khẩn trương giúp dân sửa sang nhà cửa, hầm hào, trồng khoai phòng giáp hạt...

Trong xã có nhiều tín đồ Phật giáo, riêng thôn Danh Sơn có nhà thờ Thiên Chúa giáo. Lâu lắm mới được nghe tiếng gõ mõ tụng kinh và tiếng chuông ngân vang trong gió chiều, chúng tôi thấy lòng ấm áp.

Tôi và cậu Vinh, một thanh niên Quảng Ngãi đang học nghề phóng viên, ở và làm việc tại nhà một vị đại diện Phật giáo. Chắc cảm kích vì cách giao tiếp cởi mở chân thật của chúng tôi (nói đúng hơn chúng tôi cũng có tuyên truyền rỉ rả đôi chút nhưng vẫn với lòng thành thật), nên về sau ông ta thú nhận thỉnh thoảng vẫn đi Đà Nẵng xin chỉ thị của Giáo hội về “đối sách” với Mặt trận Dân tộc Giải phóng và với cán bộ Mặt trận đang ở ngay trong nhà ông.

Cách Kỳ Yên chỉ vài cây số, phía Bắc là đồn Phước Lâm, phía khác là mấy đồn ngụy nữa, nhưng tin tưởng ở lực lượng du kích vây đồn, chúng tôi vẫn ăn ngon, ngủ yên. Nửa tháng sau, tuy nơi đóng cơ quan mới bị dội một trận pháo cấp tập, Ban và phân xã vẫn chỉ xê dịch qua các thôn của Kỳ Yên, ít lâu sau mới di chuyển đi xã khác.

Trụ bám ở đồng bằng lúc đó rất thuận lợi. Với phân xã Giải phóng xã, ấy là đưa tin nhanh hơn, phong phú hơn. Trận đầu tiên đánh đế quốc Mỹ, quân ta diệt gọn một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở Núi Thành, phân xã đưa ngay được bài tường thuật ra Hà Nội và vào Trung ương Cục miền Nam.

Tuy nhiên, với sự kiện quân viễn chinh Mỹ kéo vào Đà Nẵng từ 8/3/1965 và tiếp đó tới đóng ở Chu Lai cùng nhiều căn cứ khác, quân dân Việt Nam lại đứng trước thử thách khốc liệt, phải đương đầu với một kẻ địch có phương tiện chiến tranh nhiều và hiện đại gấp trăm lần quân ngụy Sài Gòn và cả quân viễn chinh Pháp trước đây.

Sinh hoạt hàng ngày của cơ quan đóng trong nhà dân trở nên rất căng thẳng. Các loại “tàu rà” của Mỹ lượn lờ trên bầu trời hầu như suốt ngày, hễ thấy chút gì khả nghi là phát tín hiệu cho đại bác dội đến xối xả hoặc máy bay xô đến oanh kích. Bọn thám báo lùng sục liều lĩnh hơn. Trực thăng đưa lính đổ bộ xuống mục tiêu hung hăng như cướp đường cướp chợ.

Quân giải phóng chiến đấu kiên cường bảo vệ từng tấc đất ở thành cổ Quảng Trị, năm 1971 minh chứng cho thắng lợi của quân và dân ta trong Chiến dịch đường 9-Nam Lào (30/1 - 23/3/1971), đánh dấu sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. (Ảnh: TTXVN)

Trong các bộ phận của Ban Tuyên huấn, dễ gặp nguy hiểm nhất là bộ phận điện đài. Đài nhỏ, chỉ 15W, dùng điện ragonot quay tay, nhưng nó là điện đài minh ngữ, rất dễ bị phát hiện. Ấy vậy mà, bình thản chấp nhận chơi trò “ú tim” với địch (đồng thời cố gắng giữ bí mật hoặc thẳng thừng tranh chấp với một số cơ quan bạn sợ vạ lây), Trưởng đài Hồng Sinh và các điện báo viên vẫn tự bảo vệ được, qua thời gian dài vẫn đều đều hàng ngày cử người liên lạc với Ban và phân xã để nhận tin phát và trao tin tham khảo thu được từ Hà Nội.

Càng ngày, yêu cầu di chuyển cơ quan càng khẩn trương. Chúng tôi sống lưu động từ xã này sang xã khác, dọc vùng đồng bằng và trung du các huyện Tam Kỳ, Tiên Phước, Thăng Bình, tới đâu cũng được sự che chở của nhân dân. Tuy là “lính cùi chỏ” chuyên cầm bút, nhưng có mang súng dài, súng ngắn phòng thân, nên nhiều lúc mọi người lầm tưởng chúng tôi là bộ đội giải phóng có kỷ luật nghiêm, có vài cô gái lại chê: “Lính tráng chi như gà trống thiến.”

Được dịp tốt để phát triển đội ngũ, các anh ở Ban chủ trương mở một lớp đào tạo phóng viên để bổ sung cho báo Cờ Giải phóng, Giải phóng xã và các báo tỉnh. Lớp cũng phải dựa vào dân và nếu tôi nhớ không lầm thì buổi khai giảng diễn ra ở xã Kỳ Mỹ (huyện Tam Kỳ).

Gần hai chục anh em trẻ được tuyển dụng chọn từ các tỉnh hoặc từ thành phố Đà Nẵng ra vùng giải phóng, khỏi phải “nhảy núi,” nhưng phải học tập trong hoàn cảnh không ổn định và luôn có bom rơi, đạn nổ. Dù vậy, qua một mùa Hè nóng bỏng, khóa báo chí này vẫn đưa được vào trận những phóng viên xông xáo, yêu nghề.

Một thời gian sau, nghe đài phát thanh của Mỹ-ngụy rêu rao “bắt được một ký giả Bắc Việt,” Ban tìm cách xác minh mới biết đó là học viên cũ Lê Nguyên Khôi, bị bắt khi đi công tác ở vùng sau lưng địch. Anh Khôi giữ được khí tiết cho đến ngày ra tù và trở về với nghề làm báo ở Quảng Nam quê anh.

Khoảng tháng 4/1965, một đoàn báo chí và điện ảnh Trung Quốc vào thăm vùng giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi được Ban phân công tiếp xúc làm việc với đại biểu Tân Hoa xã. “Hoạt động đối ngoại” khá độc đáo, khiến tôi khó quên: Các cuộc đàm đạo và tham quan đều diễn ra giữa tiếng gầm rú của các loại máy bay “Thần sấm,” “Con ma”... hoặc tiếng rít của đạn pháo Mỹ-ngụy.

Ấy vậy mà không bì được với anh Trần Đống, anh len lỏi vào tận thành phố Đà Nẵng và khu kho xăng Liên Chiểu ở chân đèo Hải Vân để quay nhiều thước phim quý giá theo đề nghị của đoàn điện ảnh Trung Quốc.

Trong năm 1965 không thể quên ấy, ngoài trận Núi Thành lịch sử, các lực lượng giải phóng Trung Trung bộ còn nện cho Mỹ-ngụy nhiều đòn nên thân khác, lừng lẫy nhất là Ba Gia và Vạn Tường.

Đồng thời, quần chúng liên tục kéo đi đấu tranh chính trị trực diện không những với ngụy mà cả với Mỹ, chống khủng bố, chống dồn dân. Chúng tôi đã có dịp gặp những bà, những mẹ vừa đi đấu tranh trở về, trán còn lấm tấm mồ hôi, áo dài còn vắt vai...

Các mẹ, các chị kể chuyện sôi nổi, sinh động, và chỉ cần chúng tôi phản ánh trung thực những chuyện kể ấy là bài viết đủ hấp dẫn, chẳng phải “thêm mắm thêm muối” gì cả. Đặc biệt các mẹ, các chị rút ra kết luận vô cùng quý báu: “Đấu với Mỹ cũng không khó hơn đấu với ngụy.”

Nhưng chiến tranh cũng mỗi ngày một ác liệt hơn. Có lần, 4 máy bay “Thần sấm” oanh tạc đúng cơ quan Ban Tuyên huấn Khu. May không có ai thiệt mạng, chỉ có nhân viên trẻ Nguyễn Tạo bị thương.

Khi chúng tôi đến vực Tạo ra khỏi cái hầm hàm ếch đào phía dưới một lũy tre thì mới hiểu ra rằng đáng lẽ đồng chí đã không bị thương nếu không nhường chỗ cho chiếc máy chữ và giỏ tài liệu được nằm phía bên trong hầm (về sau đồng chí Tạo trở thành Bí thư Huyện ủy Lý Sơn-Quảng Ngãi, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và nhân dân, và tôi rất thương tiếc khi nghe tin đồng chí không còn nữa).

Phi pháo địch hoạt động cả ngày lẫn đêm. Nhiều đêm, mọi người đang ngủ bỗng giật nẩy mình vì tiếng bom nổ rần rồi mới nghe tiếng máy bay lướt qua bầu trời. Khi đóng cơ quan ở xã Thăng Lãnh, huyện Thăng Bình vào mùa lòn bon chín, lần đầu tiên chúng tôi nghe tiếng rùng rùng dài hàng chục phút của bom chùm do máy bay B.52 thả “rải thảm” ở một vùng ven núi gần đó, và sau đó thì nhiều lần chứng kiến bom B.52 tàn phá từng vùng trung du và đồng bằng mới được phục hồi sau bão lũ.

Trong một dịp từ nơi đóng cơ quan ở xã Phước Cẩm (huyện Tiên Phước) xuống thị trấn Cẩm Khê, chúng tôi nhìn thấy một đàn trực thăng của tụi “kỵ binh bay” Mỹ bay như châu chấu ngang trời, rền rĩ đinh tai nhức óc.

Hệ thống “ấp chiến lược” từng bị xóa sổ vào năm 1964, nay lại “đội mồ sống dậy” qua sức ép nặng nề của bom pháo và các cuộc càn quét bằng “trực thăng vận” của Mỹ.

Sự gan góc cũng phải có tính toán, nếu không thì “lợi bất cập hại.” Cùng lúc quân giải phóng tiến công địch trong Thu Đông 1965, các cơ quan khu V lần lượt trở về căn cứ địa Trường Sơn.

Ở nơi rừng núi thiếu thốn trăm bề, phân xã Thông tấn xã giải phóng Trung Trung bộ lại tiếp tục cố gắng bảo đảm cho nguồn tin luôn thông suốt trên làn sóng điện, góp phần nhỏ bé vào công tác tư tưởng: Quyết chiến đấu lâu dài vì “Không có gì quý hơn độc lập tự do” (lời Bác ở một “Hội nghị Diên Hồng” của thời đại mới, năm 1966)./.

Võ Thế Ái (TTXVN/Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: http://www.vietnamplus.vn/phan-xa-ttxgp-trung-trung-bo-va-nhung-ky-niem-khong-quen/667043.vnp