Ông Mười 'ôm tài sản' hàng trăm bụi tre

Ông Võ Sô (60 tuổi), ở thôn Thạnh Đức, xã Xuân Quang 3 (huyện Đồng Xuân, Phú Yên), ông thứ 10 nên người trong xóm gọi là ông Mười, 'nuôi' gần 200 bụi tre.

Ông Mười rong gai tre hàng tre soi Hóc Ống.

Hàng tre của ông trải dài qua 2 xã, đơm màu xanh hàng trăm năm tuổi. Dẫn chúng tôi đi “coi” tre một vòng, đếm đủ 175 bụi tre, ông Mười kể “tiểu sử” hàng tre. Tre xanh 3 đời, từ đời ông nội đến cha ông và thế hệ ông ra sức “nuôi” tre. Khó có ai có “tài sản” tre như ông.

Hàng tre trải dài qua 2 xã

Hiện ông Mười làm chủ 2 hàng tre. Hàng tre trên soi Bà Năm thuộc thôn Triêm Đức, xã Xuân Quang 2 (huyện Đồng Xuân), với 150 bụi và hàng tre soi Hóc Ống thuộc thôn Thạnh Đức, xã Xuân Quang 3, với 50 bụi. Cả 2 hàng tre nằm dọc theo dòng sông Cái (hay còn gọi là sông Kỳ Lộ). Bụi tre nằm cạnh bờ sông, bộ rễ ngậm nước nên tre cái (tre to) vươn cao thẳng đứng.

Tre trải dài, bờ tre của ông “rào” bờ sông dài gần 2 cây số. Khoảng cách bụi tre đan xen nhau như “nối vòng tay”, tạo thành một thành lũy kiên cố. Còn tre nằm bên trong đất soi thì có khóm tre 4 đến 5 bụi “bó” lại, ông dùng rựa bén “dọn” rong gai sạch sẽ làm tre cảnh “duyên dáng”.

Ngồi nhâm nhi ly rượu gạo, ông Mười chia sẻ thông dụng cây tre: Mưa bão vừa qua, nước chảy từ trên núi đổ xuống sau hè bứng móng chuồng heo, làm lệch mái gãy đòn tay, ra chặt cây tre lận vô thay thế ngay. Hay như chuồng bò bị bão xô xiêu vẹo thì chặt tre đực “chống gậy” xung quanh chuồng bò.

Cây tre khắc phục tình huống khẩn cấp, có chỗ cho bò, heo đứng. Hay như gió bão làm ngã đổ đường dây điện băng qua đường, chặt cây tre chống lên “cấp cứu” hệ thống điện trong nhà rồi sau đó đổ trụ thay thế. Nếu không có tre đi chặt cây thì mất một ngày mới có cây thay thế.

Ông Mười bẻ măng “đúng” tuổi.

Bao năm gắn bó với tre, nhìn bụi tre ông “biết mặt” từng cây tre. Tre vừa đủ lá là tre một năm dùng làm tre lạt (dùng để buộc, cột), thân tre từ màu xanh ngã sang màu vàng là tre 3 năm dùng đóng bè tre, tre lên nước màu đỏ là tre 5 năm trở lên dùng làm đòn tay. Đó là thân tre, còn gốc tre thì người xưa có câu: Ông già ổng chết đã lâu/Cặp mắt trao tráo chòm râu vẫn còn. Ý nói thân tre già chặt rồi, còn lại phần dưới gốc, mắc tre (ở dưới gốc tre), rễ tre (chòm râu) hàng chục năm chưa mục.

Trước đây, cất nhà gần ruộng dùng gốc tre đóng xung quanh rồi đổ đất nền lên, nhờ gốc tre đất không xệ xuống giữ chặt móng nền nhà. Còn những đám đất gò gần họng suối, mùa mưa nước chảy trôi đất đá đổ vô ruộng thì dùng gốc tre đóng chặt xuống đất dựng thành bờ tre ngăn đất đá từ suối tràn vô.

Gốc tre già, tre mắc kiến (kiến đục mắc tre tạo u nần) ông đục đẽo, gọt dũa “sáng tác” ra con vật gà, vịt…không phải trơn tru mà đầy đủ lông lá, cháu ngoại ông đi học thì thôi về nhà ôm “nựng” gốc tre (các con vật làm bằng gốc tre).

Quyết tâm “nuôi” tre

Với “tài sản” 175 bụi tre, hằng năm ra ngàn mục măng, ông lựa chặt bán gần 1.000 cây tre già. Theo ông Mười, chặt tre có cách, khi chặt tre bán hoặc đan các vật dụng thì chặt tỉa, chừa lại một số cây để khi măng mọc lên dựa vào thân tre già che chở măng lên thẳng. Nếu chặt triệt lứa tre già thì măng mọc lên gió sẽ quật gãy, cây tre bị cụt đọt làm bụi tre lùn xuống. Khi tre bị cụt đọt nếu có để lâu năm (trên 10 năm) thân tre ngả màu vàng óng, dùng đan nong, thúng sẽ mau mục, không bền như cây tre nguyên đọt.

Bẻ măng cũng có “bí quyết”, bẻ mục măng từ dưới đất cao đến đầu gối người lớn, khi bẻ sát gốc, tre ra mục măng khác. Còn măng cao đến ngang bụng mà thò tay bẻ là “mang ác”, vì khi bẻ phần non ở trên (2 gang tay người lớn), còn chừa lại phía dưới gốc, tre tiếp tục ra lá, cây tre đó bị “tật nguyền”.

Không những thế, bẻ măng riết như vậy sẽ “hư” bụi tre vì sau cây tre không đủ sức ra măng. Còn nữa, để măng lên thẳng phải thường xuyên dùng rựa rong (chặt dọn gai quanh bụi tre). Cách chặt tre và “bí quyết” bẻ măng là để “nuôi” hàng trăm bụi tre xanh tươi bên bờ sông Kỳ Lộ.

Sông Kỳ Lộ mùa mưa nước hung dữ, đợt lũ lịch sử năm 2009, phía bên soi Xóm Trường, xã Xuân Quang 2 (nơi có 18 người chết do lũ cuốn trôi, 41 ngôi nhà đổ sập hoàn toàn), nước lũ chảy xiết đến nỗi bứng những bụi tre mồ côi (tre đứng một mình), trôi cả chục cây số xuống đồng Bé (thôn Thạnh Đức) phơi thành “cánh đồng gốc tre”, còn tre trồng thành hàng như ông rễ tre níu lại đứng vững trong lũ dữ.

Đất soi nền nhà cũ phía trong hàng tre ông Mười trồng cỏ nuôi bò kết hợp “nuôi” tre.

Cũng trong đợt lũ lịch sử 2009, dọc sông Kỳ Lộ hàng ngàn héc ta đất canh tác bị lũ lụt “nạo” hết lớp đất mặt, bồi lấp cát, nhiều người sau lũ mất trắng diện tích đất sản xuất. Riêng đất soi nhà ông có tre che chắn, không mất tấc đất nào. Hàng tre giữ làng, giữ đất bền lâu giá trị bằng bờ kè xây bằng bê tông ngàn tỉ.

Ông Mười còn cho hay, chỗ soi Hóc Ống có bến sông Hóc Ống là nhà cũ của ông. Những năm tháng sống ở nhà cũ, bụi tre xung quanh nhà cất giấu nhiều kỷ niệm. Có năm vào mùa mưa, nước lụt lớn bất ngờ, cả gia đình chạy thoát thân không kịp dọn đồ. Sau lũ lụt rút nước, trở về thì mọi vật dụng trôi sạch, tìm quanh một hồi thì phát hiện cái nồi to bị nước lụt cuốn trôi mắc kẹt trong bụi tre, rảo tìm thì thấy mấy cái chảo, nong nia, giần sàng trôi tắp trong hàng tre, nhờ hàng tre giữ của.

Gần đây ông có dịp đi đây đó, vào tận thành phố “ngồi lơ” ở quán cà phê, ông thấy mặt tiền được đóng những khung tre, phía ngoài cũng trang trí hàng rào tre giả bằng bê tông xi măng. Hỏi thì chủ nhà nói, chủ yếu trang trí “hồn tre” trước mặt tiền, còn phía sau không đủ tiền làm nổi vì chi phí cao. Ông nhìn kỹ, thợ hồ đắp lên gốc tre mộc mạc bằng xi măng làm hàng rào, không biết vô hình hay cố ý, có chỗ xi măng u nần, có chỗ lún vào giống như tre mắc kiến.

Xã hội hiện đại, trong các vật dụng gia đình, đồ nhựa ra đời thay thế đồ tre nhưng gần đây hầu như người dân từ thành miền quê đến thành phố đều sử dụng lại vật liệu tre.

Chẳng hạn như đôi đũa, đũa nhựa đủ màu đẹp mắt nhưng trơn gắp miếng thịt rớt lên rớt xuống, có khi gần đến miệng còn rớt. Còn đũa tre gắp đâu chắc đó. Đũa nhựa nhìn sang nhưng chịu lửa không bằng đũa tre vì vậy ai cũng dùng đũa tre nướng thịt cá.

Tuy vào trong xóm Thạnh Hạ nhưng ông Mười không “rời khỏi” hàng tre, hằng ngày ông ra soi dọn gai dưỡng măng tre “nuôi” tre, vừa cắt cỏ nuôi bò (đất soi nền nhà cũ phía trong hàng tre ông trồng cỏ và dựng trang trại bò). Thỉnh thoảng, trưa chiều ông lên soi Bà Năm thăm chừng hàng tre, sợ có người bẻ măng.

Ông lo ngại những người không biết nghĩ, thò tay bẻ mục măng cao “mang ác”, để lại cây tre bị tật nguyền…

MẠNH HOÀI NAM

Nguồn Nông Nghiệp: https://nongnghiep.vn/ong-muoi-om-tai-san-hang-tram-bui-tre-post257517.html