Nơi cuối trời Tây Bắc

Từ Lai Châu lên Sìn Hồ, những cung đường cứ liên tục mở ra rồi chìm khuất trong ngàn mây bao phủ. Và cuối cùng, chúng tôi cũng đến được huyện Nậm Nhùn và đặt chân lên đất Nậm Ban, nơi được coi là vùng đất tổ, địa bàn cư trú lâu đời của một trong những dân tộc ít được biết đến trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam: Dân tộc Mảng.

Nhờ sự giúp đỡ của BĐBP, người Mảng ở Lai Châu đã bắt đầu biết trồng lúa nước.

Nằm trong số năm dân tộc đang đứng trước nguy cơ suy thoái giống nòi, dân số của dân tộc Mảng hiện chỉ còn chưa đầy 3.500 người. Theo các câu chuyện dân gian kể lại, vùng Tây Bắc đất Nậm Ban xưa kia vẫn được gọi là quê hương của người Mảng. Và dân tộc Mảng cũng được giới nghiên cứu ghi nhận là một trong số ít những dân tộc bản địa của Việt Nam. Suốt nhiều thế kỷ qua, tổ tiên của người Mảng truyền lại cho con cháu tập quán không di canh, di cư và để lại cả cái tập tục uống rượu tối ngày lẫn sự đói nghèo tụt hậu.

Nguyên nhân của sự nghèo đói thì nhiều lắm! Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer thuộc ngữ hệ Nam Á, người Mảng xưa là dân tộc "ăn nương" chuyên sống bằng nông nghiệp nương rẫy theo lối du canh, du cư. Người Mảng mang trong tiềm thức, cha ông họ không có dụng cụ để chọc lỗ trỉa hạt. Họ chỉ biết theo dấu chân con hoẵng trên đất rừng để tra hạt vào đó rồi chờ cây lúa nảy mầm. Cứ thế, đời này qua đời khác luẩn quẩn trong rừng sâu.

Bước sang thế kỉ 21, trai gái Mảng đã biết dùng điện thoại để hẹn hò, trao đổi chuyện làm ăn, nhưng phương thức làm đồng áng vẫn như hàng trăm năm trước. Tỷ lệ nghèo đói của dân tộc này lên đến 80% và chỉ số phát triển qua nhiều năm luôn bằng 0. Cũng dễ hiểu vì người Mảng đã sống quá lâu ở một địa bàn, đất canh tác bạc màu và tài nguyên rừng gần như chẳng còn gì. Họ cũng không chịu đi khai hoang tìm khu vực sản xuất mới nên bài toán đói nghèo mãi không có lời giải.

Nhiều năm trước, khi đến các bản Pa Cheo, Nậm Nghẹ, Nậm Nó..., tài sản của mỗi hộ gia đình người Mảng ở đây chỉ có một ngôi nhà xiêu vẹo, dăm bộ quần áo tả tơi và vài ba thứ nông cụ nghèo nàn. Ngay cả Nậm Ó - một bản được coi là lâu đời ở Nậm Ban vào giữa mùa mưa năm nay, khi các dự án hỗ trợ cho người Mảng đã đi được nửa chặng đường thì các căn nhà cũng chưa khang trang hơn là mấy.

Dưới những mái nhà trổ đầy bóng nắng, chúng tôi chứng kiến một không gian sinh hoạt tưởng chỉ thuộc về những con người của thế kỉ 19. Nhà của người Mảng tuy nhỏ, song bên trong vẫn có vách ngăn thành các gian biệt lập làm nơi nghỉ cho người già, cho cặp vợ chồng chủ nhà và các con. Giống như người Pu Péo, người Mảng cũng có hai bếp nằm ở hai gian đầu hồi. Bếp khách là nơi tiếp khách đến chơi, ăn thuốc, uống rượu ở ngay cửa ra vào và gần sát gian dành cho người già. Còn bếp chủ dành để nấu ăn nằm ở cuối nhà.

Thượng úy Giàng A Lử, cán bộ vận động quần chúng Đồn BP Hua Bum nhắc chúng tôi, khi vào nhà người Mảng không nên mang theo cây lá. Bởi người Mảng quan niệm rằng ông bà, tổ tiên lúc nào cũng sống trong nhà, không thích sống trong rừng, vì vậy, nếu đem cây xanh vào nhà tức là có ý đuổi ông bà, tổ tiên ra ngoài rừng. Vì thế, ông bà, tổ tiên sẽ nổi giận mà giáng tai họa xuống cho con cháu.

Những quan niệm thuần phác như vậy trong cộng đồng người Mảng tồn tại như một lẽ tự nhiên. Trong tâm thức, họ đề cao các thế lực siêu nhiên và coi vạn vật quanh mình đều có ma. Họ đặc biệt coi trọng thầy mo và thường tổ chức hàng chục nghi thức cúng lễ như cầu phúc cầu thọ, cúng ma nhà, cúng bên ngoại, cúng hồn lúa, cúng ốm đau, đám tang, đám cưới rồi đến cúng cầu xin thần núi, thần sông, thần lúa...

Rồi cũng giống như các dân tộc ít người khác, vấn đề hôn nhân cận huyết thống, tảo hôn cũng là vấn nạn lớn của người Mảng, bởi bà con chỉ suy nghĩ đơn giản rằng, dẫu là con anh, con em, nhưng cứ khác họ là có thể lấy nhau. Phụ nữ sinh con vẫn đem đứa trẻ xuống suối rửa. "Dân tộc này là một trong những dân tộc có tuổi thọ ít nhất ở Lai Châu hiện nay. Tuổi thọ bình quân của họ chỉ đạt đến mức 50" - Ông Phạm Minh Hải, Bí thư Đảng ủy xã Nậm Ban chua xót nói.

Và cả sự "bình đẳng" trong uống rượu, hút thuốc lào giữa đàn ông và phụ nữ cũng góp thêm phần vào sự nghèo đói triền miên. Tôi nhớ câu dân ca Mảng nhủ rằng: "Này các con ơi/Mẹ cha công khó/Nuôi con thành người/Chớ có ham chơi/Hãy ham làm việc/Cho nhiều lúa khoai/Sống đời no đủ..." mà chạnh lòng, bởi người Mảng hát vậy mà đâu có làm vậy.

Những can rượu không rõ xuất xứ với giá rẻ giật mình đã và đang nhấn chìm đời họ. Ngay cả khi Chính phủ đã đầu tư, từng bước nâng cao đời sống cho dân tộc Mảng, nhà được lợp bằng mái tôn, trẻ con được tới trường, người dân được chăm sóc y tế... thì bà con vẫn coi việc uống rượu, hút thuốc quan trọng hơn làm đồng.

Song, tôi vẫn nhìn thấy rất nhiều điểm sáng ở Nậm Ban. Từng có những cán bộ cắm bản than rằng: "Vào được nhà người Mảng khó như đi vào rừng, khuyên được người Mảng đừng uống rượu khó bằng xuống dưới khe sâu, đưa được người Mảng ra ruộng cấy cày còn khó hơn trèo lên đỉnh núi". Khó thế mà những cán bộ Biên phòng nơi cuối trời Tây Bắc này vẫn làm được.

Những cái tên như Thiếu tá Lã Hồng Vương... được nhắc đến nhiều trong câu chuyện của bà con. Bà con tin tưởng các anh bởi nhiều lẽ: Thứ nhất là, khó có ai thông thuộc và gắn bó với bà con các dân tộc trên vùng đất Nậm Ban này bằng họ. Đã vậy, những người cán bộ cắm bản này còn thông thạo sáu "nội ngữ" Mảng, Thái, Mông, Dao, Hà Nhì, Quan Hỏa.

Và một lý do quan trọng không thể không kể đến là, hiếm có người nào gần gũi, gắn bó và được gần 1.000 bà con dân tộc Mảng ở Nậm Ban yêu quý như các anh. Bây giờ, cứ đến mùa, vào vụ là cả bản có mặt trên nương, bảo nhau cày bừa, cấy hái. Cuộc sống đã thêm phần no đủ. Người Mảng ở Nậm Ban bảo, phải làm thôi, khó đến đâu đã có BĐBP giúp đỡ.

Chị Chìn Me Tơn, một phụ nữ ở Pa Cheo cho biết, ngoài những khi lên rẫy trồng tỉa, nghề thủ công duy nhất của người Mảng xứ này là đan lát. Các sản phẩm thường là các vật dụng thường nhật như cót, bem, gùi... mà người Mảng để dùng hoặc để bán và đổi lấy gạo, vải vóc với các dân tộc khác. Sự gắn bó của người Mảng xưa trong quan hệ cộng đồng chính là các dòng họ sinh sống trong từng phạm vi riêng.

Dù vậy, luật tục chung của dân tộc vẫn được tôn trọng. Ví như phụ nữ có chồng phải buộc cuộn đuôi tóc thành chỏm, còn con gái chưa chồng vẫn phải để đuôi tóc. Nét độc đáo còn lại rõ nét là trong y phục phụ nữ Mảng, đặc biệt nhất là tấm choàng quấn quanh thân bằng vải thô màu trắng, ở giữa thêu hàng chỉ đỏ gọi là tấm "pẹ".

Nhìn chị Tơn cùng những phụ nữ khác ở Nậm Nó khâu những đồng xu kim loại lên tấm "pẹ", thật khó tưởng tưởng ra được chân dung của những người phụ nữ Mảng của ngày xưa với tục xăm cằm. Tục này bắt nguồn từ câu chuyện, một người Mảng có một người vợ quanh năm chỉ hành hạ, nhiếc móc chồng. Thần linh giận nên bày cho người chồng khâu mồm vợ lại. Dù giận vợ nhưng người chồng không nỡ ra tay, đã dùng gai châm lên mặt vợ rồi phết mực lá cây la hủy, tạo ra những đường như chỉ khâu. Hiểu được tấm lòng của chồng, cô vợ thay tâm đổi tính. Người Mảng từ đó trở đi theo tục lệ này với mong muốn người phụ nữ sẽ luôn nết na, thảo hiền.

Chị Lò Me Lao, một trong hai phụ nữ xăm cằm cuối cùng ở Nậm Ô chỉ cho tôi những vết xăm xanh nhạt chạy vòng từ dưới mắt, qua hai bên mũi và xuống dưới cằm. Ngày nay, họ không còn giữ phong tục này, song, khi một phụ nữ nào đó mất đi, trước lúc khâm liệm, thầy mo bao giờ cũng lấy than vẽ quanh cằm như cằm đã xăm để họ được thuận lợi "nhập" về thế giới bên kia...

Dẫu cuộc sống thiếu khó đủ bề, song không vì thế mà nét dân ca, dân vũ của người anh em nơi cuối trời Tây Bắc này kém đi phần tinh tế. Cây sáo, hay còn gọi là "luôm" được coi là biểu tượng cho sự tự do, bình đẳng dành cho người con gái Mảng. Chỉ có con gái Mảng mới được mẹ dạy cho làm và thổi sáo "luôm".

Con trai Mảng thì học đàn bầu. Khi đã có tình ý với nhau, tìm hiểu nhau bên suối hoặc bên đống lửa; người con gái sẽ thổi "luôm" và người con trai sẽ gẩy đàn bầu; không tỵ hiềm hay phân biệt là ai tấu trước. Khi hòa tấu theo cảm hứng bằng "luôm" và đàn bầu đó đến độ ưng nhau sẽ dẫn cưới. Tuy nhiên, sau khi thành gia thất, phụ nữ Mảng sẽ bẻ "luôm" không thổi nữa và chỉ khi có con gái thì mới truyền dạy lại.

Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 1672/QĐ-TTg phê duyệt đề án "Phát triển kinh tế - xã hội vùng các dân tộc: Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao giai đoạn 2011 - 2020". Theo đó, bên cạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc nơi đây phát triển, giảm nghèo, thoát nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần..., nhiệm vụ được nhấn mạnh là "hỗ trợ hộ nghèo lương thực ăn khi thiếu đói, mắc điện sinh hoạt, làm nhà ở, nhà vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi; hỗ trợ về giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng; hỗ trợ khai hoang, xây dựng ruộng bậc thang sản xuất lúa nước...".

Và tiếng trống giữa vùng đất tổ Nậm Ban mở đầu cho điệu múa "tà lơm" khiến chúng tôi bất giác nghe thấy nhịp thời gian như đảo chiều trở về những ngày xưa cũ của người Mảng thuở du canh. Những động tác trỉa hạt trên nương được cách điệu hóa trong điệu múa "tà lơm" dùng trong lễ cầu mùa này, giờ đây đã trở thành một ký ức thiêng liêng của người Mảng trên bước đường đi vào một thời đại khác.

Niềm vui đã bắt đầu gõ cửa từng bản Mảng. Tính đến cuối năm 2013, các tỉnh thụ hưởng thuộc dự án mới chỉ nhận được 73 tỷ đồng cho hàng trăm hạng mục cần đầu tư, hỗ trợ. Ngày chúng tôi đến, đường lớn đã mở vào đến thung lũng Nậm Ban. Đã có những điểm trường dẫu thưa vắng học sinh đã mọc lên giữa các bản Mảng.

Một thế hệ mới của dân tộc Mảng đang lớn dần lên giữa vùng biên cương Tây Bắc. Đã không còn cảnh các em lớn lên lăn lóc cùng bùn đất, tự kiếm thức ăn từ rừng về, bởi đã có những thầy, cô giáo, những cán bộ khuyến nông, y tế, BĐBP... nguyện cùng các em đem lại một tương lai mới cho dân tộc này.

Phạm Vân Anh

Nguồn Biên Phòng: http://bienphong.com.vn/noi-cuoi-troi-tay-bac/