Nơi cửa rừng

Tôi xuống tàu ở ga Xép.Một mình một túi khoác, tôi leo đèo Eo Bát lúc mặt trời gác núi. Hoàng hôn miền rừng xuống rất nhanh. Gió núi rười rượi thổi. Đèo Eo Bát bị xẻ toác ra. Đá hòn, đá lớp bị bạt hết làm đường to. Tôi cố mường tượng tìm hình xưa dáng cũ của cái đèo này...

Ngày xưa, nơi đây là cửa rừng.

Chủ nhật, tôi thường theo mẹ gánh cỏ gianh, khoác níp củ mài từ rừng qua đèo Eo Bát về nhà. Hai bên đèo là đồi núi dựng đứng, con đường mòn chạy chính giữa. Đứng ở đỉnh đèo nhìn lên chỉ thấy trời xanh. Cửa rừng nhưng cũng là cửa gió. Quanh năm, gió rừng hun hút thổi. Bên cạnh lối đi có một cây sồi già. Thợ sơn tràng thường ngồi nghỉ dưới gốc sồi lấy sức vào rừng hoặc xuống núi. Bây giờ, cây sồi vẫn còn, vỏ mốc thếch. Cây sồi đã chứng kiến khoảnh khắc bồng bột, cuồng nhiệt của tôi và Sinh, chứng kiến mọi đổi thay nơi cửa rừng.

Minh họa: Đinh Hương

Minh họa: Đinh Hương

Dạo ấy, có một doanh trại bộ đội ở bên kia đồng Cỏ, sát chân đồi con Rùa. Lính mới trẻ măng. Họ lấy vỏ quả bom bi mẹ làm kẻng. Lính trong doanh trại học tập, rèn luyện, ngủ nghỉ nhất nhất đều theo lệnh kẻng. Tiếng kẻng quen đến mức dân xóm tôi nghe là biết mấy giờ. Bây giờ, chiến tranh đã lùi xa. Doanh trại bộ đội ngày xưa mất hết dấu vết. Tất cả chỉ còn trong ký ức...

Tôi thẫn thờ đứng trước ngõ nhà mình. Cây gạo cổ thụ trong vườn xù gai vươn cành khẳng khiu lên nền trời đang xam xám tối. Lửa đỏ cháy bập bùng. Mùi xôi nếp nương ngào ngạt. Mẹ đang ngồi lúi húi đun bếp. Bóng mẹ in trên vách đen sẫm.

- Bu ơi!

Mẹ bỏ que cời bếp, ngước lên trân trân nhìn tôi. Mẹ ngạc nhiên vì tôi về đường đột khi đã chập choạng tối? Một thứ tình cảm ruột thịt sâu thẳm trong lòng tôi trào lên. Lâu lắm rồi tôi mới có cái trạng thái tình cảm này. Tôi mếu máo:

- Bu ơi! Con đã về đây.

Mẹ tôi cũng nghẹn ngào.

- Mày cũng còn biết đường mà về, hở Miên?

- Công nọ việc kia, bận lu bù, nhưng lúc nào con cũng nhớ bu.

Mẹ linh cảm tôi có chuyện không vui. Mẹ làm mặt giận, hỏi: - Chồng con đâu mà mày dẫn cái xác về không?

Chỉ chờ có thế là tôi nhao vào lòng mẹ, khóc như trẻ nhỏ. Khóc vì buồn. Khóc vì vui. Khóc vì thấy lòng mình dễ chịu. Gần bốn mươi tuổi đầu, chỉ khi về nhà, tôi mới tìm thấy tôi, tìm thấy những ngày xưa ấm áp trong lòng mẹ.

Đêm miền rừng. Tôi thao thức hoài. Mẹ lục tục dậy dỡ chõ xôi đã chín. Tôi ra ngồi ở bậu cửa, nhìn lên bầu trời. Trăng miền rừng gầy và xanh xao. Cũng đêm trăng thế này hai chục năm trước, tôi đã gặp Sinh. Cuộc gặp bất ngờ, lạ kỳ cứ ám ảnh suốt cuộc đời tôi.

Hôm ấy, ăn cơm xong một lúc thì tôi đến khe Nước tắm. Mẹ bảo tôi: Tiện thể đem ống bương theo, tắm xong vác luôn nước về. Tôi dầm mình vào nước khe trong mát. Đêm vắng. Khe vắng. Và trăng thanh. Bỗng dưng, tôi bị chuột rút. Hai bắp tay co cứng. Không bơi được nữa, hai chân quẫy đạp tuyệt vọng, mỗi lần kêu cứu là nước ộc vào miệng. Người tôi trồi lên chìm xuống. Me... ẹ ơi! Cư... ứu con! tôi kêu mẹ trong lúc khốn cùng. Và một thoáng nghĩ đến cái chết lướt nhanh trong đầu.

Sinh khoác ba lô một mình đi qua khe Nước. Anh có mặt lúc tôi sắp chìm hẳn. Sinh để nguyên quần áo lao xuống khe Nước vớt tôi lên. Anh vác tôi trên vai, chạy. Đầu dốc xuống đất, nước trong bụng tôi ộc ra miệng theo mỗi bước chạy của anh... Sau này, Sinh kể như thế, tôi thầm cảm ơn anh và ngượng ngùng, xấu hổ. Tôi hình dung tiếp theo lúc ấy, anh đặt tôi trên nền cỏ xanh, cuống quýt cúi xuống và hút nước trong miệng, mũi tôi. Đôi bàn tay anh cứng cáp quen cầm súng, cầm xẻng đào công sự gấp gáp ấn mạnh từng nhịp lên bộ ngực non tơ của tôi, làm hô hấp nhân tạo...

Sáng hôm sau, mẹ dẫn tôi đi tìm người lính đã cứu con gái mình. Doanh trại lính vắng tanh. Cả đại đội hành quân dã ngoại chưa về. Anh thiếu úy trẻ trực chỉ huy ở nhà chăm chú nghe mẹ tôi trình bày và sửng sốt khi nghe chuyện.

Sự thật vẫn là sự thật. Sinh là người cứu tôi, nhưng anh đã giấu cán bộ đại đội. Một tuần trước, bộ đội ở trại học chính trị. Chỉ có Sinh được giải quyết tranh thủ về thăm mẹ ốm, tối qua về doanh trại rất muộn. Anh trình bày lý do về muộn hai giờ đồng hồ là do tàu chậm. Nhưng anh đã quên rằng: Tàu về ga từ sáu giờ tối. Lúc điểm danh ở doanh trại vẫn nghe tiếng còi tàu tu tu. Đi lối tắt qua đèo Eo Bát về doanh trại chỉ hết một giờ đồng hồ. Không thể chậm hơn! Đại đội bắt làm kiểm điểm, thuyên chuyển xuống tổ nuôi quân và phạt bổ củi một ngày.

Tôi chạy vội đến chỗ Sinh đang bổ củi. Anh cởi trần, ngực vạm vỡ vồng lên. Mồ hôi nhễ nhại. Mặt đỏ bừng vì nóng. Cái vòng bạc tôi tặng đêm hôm qua, lấp lánh ở cổ tay anh. Tôi trào nước mắt. Chỉ vì tôi mà anh đã nên nông nỗi này... Thế rồi, tôi và Sinh yêu nhau lúc nào không biết...

Tôi lấy chồng. Chồng tôi chưa một ngày biết đến chiến tranh. Thời trai trẻ của Sinh là ở rừng núi và chiến trường. Thời trai trẻ của chồng tôi ăn học ở Đông Âu. Đêm tân hôn, tôi quỳ xuống trước mặt chồng, xin tha thứ. Anh dìu tôi dậy và ôm chặt vào lòng: "Đã sống nhiều năm ở nước ngoài, anh không nghĩ chuyện sinh hoạt nam nữ trước hôn nhân là vấn đề đạo đức. Anh yêu em là yêu con người em đang ở trước mặt anh đây. Anh chỉ yêu cầu em tống khỏi đầu hình ảnh thằng nào đã ngủ với em". Tôi thành thật: "Anh hãy cho em thời gian". Và tôi đã kể lại mối tình với Sinh cho chồng nghe. Người ta bảo: Trong đời sống vợ chồng, có lúc phải biết nói dối mới bảo vệ được hạnh phúc. Nói dối lúc đó không phải là tội lỗi. Tôi không biết nói dối. Chồng tôi bảo: "Anh biết em vẫn còn nhớ đến Sinh". Tôi luôn thành thật với chồng: "Vâng! Em chưa thể quên ngay được. Nhưng anh đừng ghen với người đã chết". Chồng tôi nói từ tốn, nhỏ nhẹ: "Anh không ghen, nhưng đừng để thân xác em ở bên chồng còn tâm hồn em dành cho người yêu cũ".

Tình cờ, chồng tôi bắt gặp quyển nhật ký của Sinh và cái vòng bạc tôi tặng Sinh đeo ở tay vào chiến trường. Người ta vất vả lắm mới đem được hai di vật ấy từ chiến trường ra đưa lại cho tôi theo lời Sinh nhắn trước khi chết. Đến lúc này thì chồng tôi làm ầm lên. Chồng tôi bảo: "Như vậy là em đang ngoại tình với người đã chết". Thế là chúng tôi cãi nhau. Chồng tôi yêu cầu không để bất cứ cái gì liên quan đến Sinh trong đầu tôi, và cả trong nhà nữa. Để cứu vãn cuộc hôn nhân có nguy cơ tan vỡ, tôi hứa làm theo ý chồng. Từ đó căn nhà bình yên, và chồng tôi yên lặng, không hề đả động đến chuyện cũ. Chồng tôi biết vợ mình vẫn nặng lòng với quá khứ, nhưng anh tảng lờ coi như không biết. Từ nóng nảy làm to chuyện sang im lìm, lặng lẽ. Tôi bắt gặp ánh mắt của anh, ánh mắt như muốn nói: "Cô đang ngoại tình với người đã chết. Tôi biết tỏng tòng tong rồi". Trời ơi! Sống với nhau như thế này thì khổ quá. Tôi thức trắng đêm suy nghĩ, cân nhắc và quyết định nói với chồng: "Thà rằng anh cứ suốt ngày chửi mắng, đánh đập thì em còn đỡ khổ. Đằng này anh... cứ lặng lẽ không nói không rằng. Anh coi thường em có phải không?" Chồng tôi gắt: "Em dở hơi vừa vừa thôi. Để cho anh được yên". Tôi khóc, nói với chồng: "Anh tốt quá. Cả đời em sẽ không bao giờ gặp người chồng tử tế như anh. Nhưng em không chịu được ánh mắt của anh. Hay là chúng ta chia tay?". Chồng tôi lo lắng: "Đừng nghĩ quẩn. Còn con cái. Còn tình yêu của anh dành cho em"...

Tôi vẫn nhớ như in cái buổi tối định mệnh ấy ở cửa rừng, ở dưới gốc cây sồi già. Linh cảm trong tôi đến từ cuối buổi chiều. Doanh trại bộ đội không có tiếng kẻng ăn cơm, không có kẻng đi ngủ tối. Có chuyện rồi! Trong lòng tôi như lửa đốt. Tôi liền chạy một mạch đến doanh trại của Sinh. Tối om, chỉ một vài chỗ thắp đèn chai tù mù thấp thoáng bóng người. Tôi hỏi thăm. Một người nói nhỏ: "Đi rồi! Đi hết rồi!". Trống ngực to hơn trống làng, tôi bưng mặt khóc. Sinh đi rồi! Sinh đi như những người lính trẻ đã từng đến đây tập luyện rồi lại đi chiến trường.

Chạy ra ga Xép. Tôi chạy, chạy cuống quýt. Gió thổi hai bên tai. Đá sắc, gai đâm dưới chân đau nhói. Tôi vẫn chạy, chạy lối tắt qua đèo Eo Bát. Cửa rừng hun hút gió. Một bóng người cũng đang huỳnh huỵch chạy ngược chiều. Chúng tôi nhận ra nhau. Tôi đổ nhào vào lòng Sinh. Sinh thở dốc, nói: Đơn vị anh hành quân đi vào Nam.

Tôi đấm liên hồi lên vai lên ngực anh: Sao anh không báo cho em?

- Anh cứ tưởng hành quân tập luyện như mọi khi. Ai ngờ, đến ga Xép, họ phổ biến lệnh hành quân vào Nam. Đơn vị đang chờ tàu, anh gửi ba lô và trốn khỏi sân ga chạy về chia tay em.

Lạy trời đất, thần linh phù hộ! Các đấng linh thiêng đã chia đôi quãng đường để Sinh chỉ phải chạy một nửa, còn tôi đỡ cho anh một nửa. Chúng tôi đã gặp nhau ngay cửa rừng, giữa đèo Eo Bát. Sinh thở hổn hển:

- Em chơ... ờ anh nhá!

- Vâ...âng! Bao giờ anh về?

- Nhanh thôi! Cùng lắm là sang năm. Không! Sang xuân anh sẽ về.

Tôi gục đầu vào bộ ngực nở nang, vâm váp của Sinh. Sinh vòng hai tay ôm chặt lấy tôi. Chúng tôi quấn vào nhau dưới gốc cây sồi già và chỉ buông nhau ra khi tiếng còi tàu tu tu từ ga Xép vọng đến. Sinh hốt hoảng: "Anh phải đi kẻo chậm mất." "Cho em đi theo với". "Không được đâu!" Sinh bắt tôi phải quay về. Tôi không chịu. Sinh chạy trước, tôi chạy sau, thỉnh thoảng anh dừng lại chờ tôi. Chúng tôi đến ga Xép thì bộ đội đang lục tục lên tàu. Sinh nhào lên cửa tàu trong tiếng càu nhàu của bạn và tiếng quát tháo của chỉ huy.

Tôi thẫn thờ nhìn con tàu xuôi về Nam. Con tàu đang chở Sinh và đồng đội của anh đi chiến trường, không biết ngày trở lại. Tôi rưng rưng nước mắt. Bất chợt, tôi thấy rất nhiều cánh chim trắng loang loáng chao liệng bên con tàu. Bao nhiêu lời chúc tụng, lời nhắn gửi, lời hát... của những người lính trẻ trên tàu mà tôi nghe không rõ. Tôi đứng nhìn theo đến khi con tàu vào Nam khuất hẳn. Sân ga và dọc đường tàu trắng xóa những cánh chim trắng vừa rơi. Những người đi đường cúi xuống nhặt. Tôi cũng cúi xuống nhặt. Hóa ra là thư của những người lính trẻ viết vội vàng từ biệt gia đình, người thân. Nhiều phong thư chưa kịp dán tem, nhiều lá thư chưa có phong bì. Tất cả đều viết nguệch ngoạc, vội vàng và nhờ người đi đường gửi hộ...

***

Tôi ra ga Xép trở về thành phố. Mẹ tiễn chân tôi đến cửa rừng ngày xưa. Mẹ tôi bảo: "Bu biết mày nặng lòng với ngày xưa quá, Miên ạ. Buông bỏ đi mà về với chồng con. Đừng lo cho bu". "Vâng! Thôi bu về đi".

Tôi lại về với chồng. Tôi về với con tôi. Tôi sẽ kể nốt cho chồng tôi nghe rằng: Ngày ấy, tôi đã xin tiền của mẹ mua tem và phong bì. Tôi đã nằm bò trên sàn nhí nhoáy ghi tên người và địa chỉ nhận thư. Tôi đã gửi giúp những người lính trẻ không biết bao nhiêu lá thư tới gia đình, người thân của họ...

Tôi thẫn thờ đi bộ qua đèo Eo Bát. Tôi ngồi nghỉ dưới gốc cây sồi già. Ngày xưa lại rưng rưng hiện về. Ngày xưa ơi! Ngày xưa nơi đây là cửa rừng. Cửa rừng hun hút gió. Tôi ngước nhìn lên. Cây sồi già đang trở mình rung lá.

Truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh

Nguồn Bắc Giang: http://baobacgiang.com.vn/bg/van-hoa/tac-gia-tac-pham/355134/noi-cua-rung.html