Nợ thuế TP.HCM: Số thực khoảng 2.200 tỷ đồng nhưng tổng nợ hiện lên đến hơn 23.500 tỷ đồng

Chênh lệch giữa số nợ thực từ đất và từ hoạt động sản xuất kinh doanh so với tổng số nợ hiện tại phần lớn xuất phát từ tiền chậm nộp và phạt chậm nộp.

Ảnh minh họa.

Tốn nhiều nhân, vật lực nhưng không thu được đồng nào

Thông tin trên được ông Lê Duy Minh, Phó Cục trưởng Cục Thuế TP.HCM mới cho biết trong cuộc hội thảo liên quan đến việc xử lý tiền thuế nợ không có khả năng nộp ngân sách nhà nước do Bộ Tài chính và Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc hội mới tổ chức.

Cụ thể, theo ông Minh, tại TP.HCM số nợ thực từ đất khoảng 1.200 tỷ, từ hoạt động sản xuất kinh doanh là 1.000 tỷ, nhưng tổng số nợ hiện tại lên tới 23.561 tỷ. Đây là số lũy kế nhiều năm. Số nợ này phần lớn xuất phát từ tiền chậm nộp và phạt chậm nộp.

“Hiện nay, Cục Thuế TP.HCM đang quản lý 233.000 đối tượng không còn địa chỉ kinh doanh, trong đó 67.894 là doanh nghiệp và 165.922 là hộ kinh doanh và cá nhân nộp thuế. Tổng số nợ là 6.639 tỷ, chậm nộp là 2.138 tỷ. Cứ qua 1 năm thì từ con số trên 6.000 tỷ này sẽ phát sinh thêm 10% khoảng 600 tỷ và đây là điều rất khó khăn cho công tác theo dõi, quản lý…Theo dõi đối tượng này tốn rất nhiều nhân, vật lực nhưng lại không thu được khoản nào từ đối tượng này”, ông Minh nói.

Xóa nợ đối với tiền chậm nộp, chậm phạt, không xóa nợ gốc

Theo thống kê từ Bộ Tài chính, tình hình nợ đọng thuế thời gian vừa qua vẫn còn cao, tổng số tiền thuế nợ tính đến ngày 31/12/2018 là 81.618 tỷ đồng, tăng 4% so với thời điểm 31/12/2017, trong đó tiền thuế nợ không có khả năng thu ngân sách là 41.387 tỷ đồng, chiếm 50,7% tổng số tiền thuế nợ. Do đó, vấn đề đặt ra là sự cần thiết phải xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về xử lý tiền thuế nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước.

Ông Nguyễn Thế Mạnh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế nêu 4 lý do chính của việc ban hành Nghị quyết nêu trên.

Thứ nhất, tạo cơ chế pháp lý để xử lý dứt điểm tiền thuế nợ, tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp tồn tại lâu năm không còn khả năng thu của các đối tượng đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, thực tế đã phá sản, giải thể nhưng chưa thực hiện các thủ tục phá sản, giải thể theo quy định pháp luật, người nộp thuế đã chấm dứt kinh doanh, không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh, địa chỉ liên lạc đã đăng ký với cơ quan quản lý thuế, bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nhưng cơ quan quản lý thuế vẫn phải theo dõi, quản lý, gây lãng phí nguồn lực.

Thứ hai, Luật Quản lý thuế năm 2006 đã qua 03 lần bổ sung sửa đổi, tuy nhiên Luật Quản lý thuế hiện hành chưa có quy định pháp luật để xử lý nợ thuế đối với người nộp thuế đã chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh và thực sự không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước, nên số tiền thuế nợ, tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp tồn tại dây dưa kéo dài.

Thứ ba, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 vừa được Quốc hội thông qua có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020, trong đó đã có quy định để xử lý nợ cho các đối tượng này, cụ thể quy định cho khoanh tiền thuế nợ (tại Điều 83), xóa nợ tiền thuế, tiền phạt, tiền chậm nộp (tại Điều 85), không tính tiền chậm nộp, miễn tiền chậm nộp (tại Điều 59). Các quy định này được áp dụng cho đối tượng nợ thuế phát sinh từ ngày 01/7/2020 trở đi, không cho áp dụng đối với các trường hợp nợ thuế phát sinh trước ngày 01/7/2020.

Thứ tư, xử lý tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp nhằm tháo gỡ khó khăn về tài chính cho những người nộp thuế có phát sinh nợ thuế, bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khác.

Theo Đại biểu Trần Quang Chiểu, Nghị quyết chỉ xóa nợ đối với tiền chậm nộp, chậm phạt chứ không xóa nợ gốc và hoàn toàn phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành vì Luật Quản lý thuế sửa đổi (Luật 38) không điều chỉnh các khoản nợ trước 1/7/2020.

Đại biểu Trần Quang Chiểu khẳng định: Nghị quyết chỉ xóa nợ đối với tiền chậm nộp, chậm phạt chứ không xóa nợ gốc và hoàn toàn phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành vì Luật Quản lý thuế sửa đổi (Luật 38) không điều chỉnh các khoản nợ trước 1/7/2020.

Bên cạnh đó, xóa nghĩa vụ nộp thuế đối với người nộp tiền (tiền danh nghĩa) chứ không xóa tiền nộp trong ngân sách, không gây thiệt hại cho ngân sách “nó khác với tiền nợ xấu, nợ khó đòi của ngân hàng vì tiền ngân hàng là đem tiền thật ra, mất tiền thật”, ông Chiểu giải thích.

Ngoài ra, các đại biểu cũng đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu làm rõ một số nội dung như: Đề nghị làm rõ tiền thuế nợ và không có khả năng thu hồi. Cần làm rõ thế nào là đối tượng không có khả năng thu hồi nợ thuế? Nếu quy định rõ đối tượng không còn khả năng nộp thuế mới đảm bảo tính thống nhất và công bằng.

BẢO VY

Nguồn BizLIVE: http://bizlive.vn/tai-chinh/no-thue-tphcm-so-thuc-khoang-2200-ty-dong-nhung-tong-no-hien-len-den-hon-23500-ty-dong-3518348.html