Những tác động của Hiệp định CPTPP đối với công tác ATVSLĐ

Ngày 14/1/2019, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam. Báo LĐ&XH đã có cuộc trao đổi với Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Lê Tấn Dũng về những tác động của Hiệp định này đối với công tác ATVSLĐ.

Thứ trưởng Lê Tấn Dũng phát biểu tại Hội thảo chuẩn bị cho Tháng ATVSLĐ năm 2019 tại Quảng Nam

Thứ trưởng Lê Tấn Dũng phát biểu tại Hội thảo chuẩn bị cho Tháng ATVSLĐ năm 2019 tại Quảng Nam

Xin Thứ trưởng cho biết, Hiệp định này có ảnh hưởng thế nào đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động?

Thứ trưởng Lê Tấn Dũng: Ngày 12/11/2018, Quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn thông qua Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Hiệp định chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam vào ngày 14/1/2019. Nội dung cam kết lao động trong đó có cam kết về điều kiện lao động, an toàn, vệ sinh lao động được quy định tại Chương 19 của Hiệp định. Trong đó, quy định các nước tham gia Hiệp định phải thông qua và duy trì trong các đạo luật và quy định cũng như trong thực hiện các đạo luật và quy định ở nước mình (tức nội luật hóa và tổ chức triển khai) những quyền được nêu trong Tuyên bố 1998 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), như: chấm dứt mọi hình thức lao động cưỡng bức hoặc ép buộc; loại bỏ một cách hiệu quả lao động trẻ em, cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất và bảo hộ lao động khác đối với trẻ em và người vị thành niên; chấm dứt phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp và những điều kiện làm việc có thể chấp nhận được về lương tối thiểu, giờ làm việc và an toàn và sức khỏe nghề nghiệp”.

Việt Nam đã gia nhập 21 Công ước của ILO, bao gồm 5 Công ước cơ bản. Trong số này, liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động, đặc biệt phải kể đến là Công ước về an toàn, vệ sinh lao động số 155 năm 1981, Nghị định thư năm 2002, Công ước về thúc đẩy khung chính sách an toàn, vệ sinh lao động số 187 năm 2006.

Quá trình xây dựng Bộ luật Lao động, đặc biệt là Luật An toàn, vệ sinh lao động (ATVSLĐ) đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua, các quy định trong các công ước của ILO về an toàn, vệ sinh lao động cũng đã được rà soát, nội luật hóa. Cụ thể như cơ chế ba bên thông qua các quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người sử dụng lao động, người lao động, của nhà nước, của tổ chức chính trị, xã hội; các quy định dựa trên các nguyên tắc ưu tiên công tác phòng ngừa; đặc biệt Luật An toàn, vệ sinh lao động còn mở rộng đối tượng áp dụng tới người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động (không có quan hệ lao động).

Như vậy, hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam về công tác an toàn, vệ sinh lao động cơ bản đã nội luật hóa phù hợp với các Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế ILO về an toàn, vệ sinh lao động.

Việt Nam đã có nhiều gắng trong việc duy trì, triển khai các hoạt động an toàn, vệ sinh lao động theo quy định của pháp luật phù hợp với các tiêu chuẩn của ILO về an toàn, vệ sinh lao động, trong cả khu vực có quan hệ lao động và không có quan hệ lao động thông qua các hoạt động thiết lập bộ máy quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động từ trung ương, đến cấp cơ sở ở địa phương như xã, phường; duy trì thường niên cơ chế đối thoại của hội đồng quốc gia, hội đồng cấp tỉnh về an toàn, vệ sinh lao động; xây dựng thiết chế về thanh tra lao động (trong đó có an toàn, vệ sinh lao động), các cơ sở hoạt động dịch vụ an toàn, vệ sinh lao động như huấn luyện, kiểm định, quan trắc môi trường lao động, chăm sóc sức khỏe; xây dựng và duy trì các thiết chế bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; tổ chức nhiều hoạt động thông tin, tuyên truyền an toàn, vệ sinh đến doanh nghiệp, người lao động và quần chúng nhân dân lao động....

Việc tham gia Hiệp định cũng có tác động không nhỏ đến việc thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động tại Việt Nam trong thực tiễn, chúng ta cần phải tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách; tuyên truyền, phổ biến tới người sử dụng lao động, người lao động; tăng cường các hoạt động hỗ trợ và giám sát đảm bảo tính thực thi của pháp luật và ngày càng có nhiều doanh nhiệp tích cực thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện lao động, đáp ứng ngày càng tốt hơn các tiêu chuẩn về an toàn, vệ sinh lao động của ILO một cách thực chất.

Thưa Thứ trưởng, trước những yêu cầu đòi hỏi của một nước thành viên tham gia Hiệp định CPTPP, Thứ trưởng cho biết những khó khăn mà chúng ta đang gặp phải trong công tác an toàn, vệ sinh lao động?

Thứ trưởng Lê Tấn Dũng: Xét dưới góc độ việc làm bền vững, an toàn, vệ sinh lao động, CPTPP mang lại cả cơ hội và thách thức. Về cơ hội, việc gia nhập CPTPP sẽ đem lại nhiều cơ hội mới về việc làm cho người lao động, tăng trưởng kinh tế và lợi ích xã hội. Cùng với cơ hội việc làm, các tiêu chuẩn lao động, các quy định, quy chuẩn và tiêu chuẩn về ATVSLĐ cũng tiếp tục được yêu cầu thực thi ở mức độ cao hơn; vấn đề tuân thủ quy định về ATVSLĐ được xem xét trong quá trình đầu tư, mua hàng và xem xét đánh giá về tự do bình đẳng trong thương mại và đầu tư khi tham gia sân chơi chung của quốc tế.

Để đáp ứng được các chuẩn mực chung về an toàn, vệ sinh lao động trong sân chơi CPTPP, chúng ta cũng đối diện với rất nhiều khó khăn, thách thức về an toàn, vệ sinh lao động đó là:

1. Nội dung của công tác an toàn, vệ sinh lao động rộng, có liên quan đến nhiều vấn đề, mọi người dân, thuộc nhiều cơ quan quản lý, từ kiểm soát thông tin đầu vào của các yếu tố sản xuất như máy, thiết bị, hóa chất, nhà xưởng, sức khỏe người lao động, điều kiện lao động, đến các vấn đề như lao động chưa thành niên, lao động nữ, lao động là người cao tuổi, thời giờ làm việc, đến việc giải quyết hậu quả tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… thuộc mọi lĩnh vực, cả khu vực có quan hệ lao động và không có quan hệ lao động.

2. Nhận thức về công tác an toàn, vệ sinh lao động của các cấp, các ngành còn chưa tốt, nhiều nơi, nhiều lúc thiếu quan tâm. Người sử dụng lao động chưa nhận thức hết sự liên quan giữa phát triển bền vững và an toàn, vệ sinh lao động như lợi ích của công tác an toàn, vệ sinh lao động đến nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành, vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại như các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội nên chưa thực sự quan tâm đến việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện lao động cho người lao động hoặc thực hiện còn mang tính đối phó hình thức. Vấn đề ý thức, tác phong của một bộ phận người lao động còn chủ quan, xem nhẹ công tác an toàn, vệ sinh lao động; chưa chủ động thực hiện đầy đủ các quyền cũng như trách nhiệm của mình trong công tác an toàn, vệ sinh lao động. Người lao động còn thiếu các kỹ năng, hiểu biết để phòng tránh các nguy cơ, rủi ro gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

3. Khi quy mô của nền kinh tế càng lớn, đòi hỏi nguồn lực như nhân sự, tài chính mà Nhà nước đầu tư cho công tác an toàn, vệ sinh lao động tăng; tuy nhiên trong bối cảnh tinh giảm biên chế, thắt chặt các chi tiêu công thì sự gia tăng nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho công tác an toàn, vệ sinh lao động là rất hạn chế.

4. Năng lực quản lý, kiểm soát công tác an toàn, vệ sinh lao động của các cơ quan quản lý an toàn, vệ sinh lao động còn nhiều bất cập, chưa bắt kịp với yêu cầu phát triển. Thiếu một đội ngũ quản lý, triển khai công tác an toàn, vệ sinh lao động am hiểu chuyên môn, nghiệp vụ ở cấp cơ sở. Nguồn nhân lực trong nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, khoa học kỹ thuật trong việc phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; nhận diện và đánh giá các nguy cơ, rủi ro mới về an toàn, vệ sinh lao động chưa bắt kịp với sự phát triển của kinh tế, xã hội.

5. Một số chính sách, quy định về an toàn, vệ sinh lao động cũng không còn phù hợp trong điều kiện của tình hình thực tiễn, cần được tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp hơn khi Việt Nam tham gia CPTPP như danh mục một số công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại cấm sử dụng lao động nữ, đảm bảo sự bình đẳng, quyền được lựa chọn việc làm cũng như cơ hội có việc làm của lao động nữ; vấn đề thời giờ làm việc, thời giờ làm thêm của người lao động trong bối cảnh công nghệ 4.0 đang phát triển nhanh và mạnh; Hệ thống thống kê, báo cáo tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tư vấn về ATVSLĐ còn nhiều hạn chế.

6. Các dịch vụ an toàn, vệ sinh lao động như khám chữa bệnh nghề nghiệp, huấn luyện, kiểm định, quan trắc môi trường lao động; hệ thống tư vấn kỹ thuật, hệ thống quản lý về ATVSLĐ chưa đáp ứng các yêu cầu của phát triển.

Xin Thứ trưởng cho biết những giải pháp trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả thực hiện công tác ATVSLĐ khi VN tham gia Hiệp định CP TPP nói riêng và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới nói chung?

Thứ trưởng Lê Tấn Dũng: Để nâng cao hiệu quả thực hiện công tác ATVSLĐ khi VN tham gia Hiệp định CP TPP nói riêng và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới nói chung chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhóm các giải pháp sau:

Cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, xã hội đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động. Các cấp, các ngành, chính quyền và các đoàn thể dành sự quan tâm đến công tác an toàn, vệ sinh lao động. Đây là vấn đề đã được Ban Bí thư chỉ rõ trong Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 18/9/2013 về đẩy mạnh công tác an toàn, vệ sinh lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đồng thời đã được quy định rõ trong Luật an toàn, vệ sinh lao động.

1. Phải coi trọng và tăng cường công công tác thông tin, tuyên truyền an toàn, vệ sinh lao động đến tận cơ sở sản xuất - kinh doanh, đến từng người lao động bằng hình thức phong phú, đa dạng, đi vào chiều sâu để bảo đảm mọi người dân đều có thể tiếp cận được với các thông tin về an toàn, vệ sinh lao động, hình thành văn hóa an toàn, vệ sinh lao động. Tiếp tục đổi mới và triển khai sâu rộng công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật an toàn, vệ sinh lao động đến các đối tượng, chủ thể có liên quan; chú trọng xây dựng cơ sở dữ liệu và các hoạt động cung cấp thông tin về các tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật về an toàn, vệ sinh lao động cho các doanh nghiệp; mở rộng các hoạt động thông tin, tuyên truyền, tập huấn về an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động trong khu vực phi kết cấu. Tiếp tục tổ chức có hiệu quả các hoạt động của Tháng hành động về an toàn, vệ sinh lao động, các phong trào thi đua sản xuất đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động. Công tác thông tin, tuyên truyền cần phải đổi mới theo hướng làm thay đổi cách nghĩ, cách làm của doanh nghiệp và người lao động.

3. Thay đổi tư duy, suy nghĩ tích cực để huy động và thúc đẩy các nguồn lực của xã hội đầu tư cho công tác an toàn, vệ sinh lao động phù hợp với cơ chế thị trường có sự cạnh tranh minh bạch, đặc biệt là thúc đẩy các dịch vụ xã hội về an toàn, vệ sinh lao động như: huấn luyện, kiểm định, quan trắc môi tường, chăm sóc sức khỏe người lao động, tăng cường kiểm soát chặt chẽ chất lượng các dịch vụ an toàn, vệ sinh lao động...

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung pháp lý và chế độ chính sách về ATVSLĐ theo hướng công khai – minh bạch - tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin kết nối giữa Chính phủ, doanh nghiệp và người lao động; tăng khả năng tiếp cận của người dân và doanh nghiệp đối với các cơ chế bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, nhấn mạnh đến tính phòng ngưà̀. Thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, cắt giảm, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính để tiết kiệm chi phí và thu hút các nguồn lực xã hội cho công tác an toàn, vệ sinh lao động, tăng khả năng tiếp cận của người dân và doanh nghiệp, giảm áp lực công việc đối với cơ quan hành chính.

4. Chú trọng công tác nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao, áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để cải thiện môi trường và điều kiện làm việc cho người lao động, đặc biệt là trong những ngành nghề, lĩnh vực có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động phù hợp với yêu cầu tình hình mới, thay thế cho các tiêu chuẩn, quy chuẩn cũ.

5. Tăng cường và nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác an toàn, vệ sinh lao động thông qua bồi dưỡng, tập huấn, nâng cao năng lực, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, nhân sự làm công tác ATVSLĐ trong các cơ quan quản lý nhà nước, trong các doanh nghiệp. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật An toàn, vệ sinh lao động tới các đối tượng người lao động làm việc trong khu vực này đồng nghĩa với khối lượng công việc quản lý nhà nước an toàn, vệ sinh lao động sẽ nhiều hơn, đòi hỏi phải có sự phân cấp, phân quyền và cải cách hành chính mạnh mẽ. Trong bối cảnh biên chế, nhân lực làm công tác này hiện nay được coi là khá mỏng thì việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phân cấp hợp lý và tăng cường trách nhiệm của từng cấp từng ngành là quan trọng, nhất là cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và tư vấn, hướng dẫn về an toàn, vệ sinh lao động đối với những lĩnh vực trọng điểm, có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhằm kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các sai phạm để ngăn ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; đưa tin, công khai các đơn vị vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng; biểu dương các đơn vị làm tốt và phê phán các đơn vị, tổ chức vi phạm để doanh nghiệp, xã hội được biết.

7. Chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Tích cực triển khai các hoạt động của Mạng thông tin quốc gia về an toàn, vệ sinh lao động kết nối với Mạng An toàn, vệ sinh lao động khu vực ASEAN (ASEAN-OSHNET) và quốc tế; chủ động tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, tiếp cận, ứng dụng các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước để đảm bảo ngày càng tốt hơn công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động ở trong nước. Tranh thủ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, hỗ trợ của các nước, các tổ chức quốc tế, tiến tới chủ động đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực trong nước.

8. Người sử dụng lao động phải tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội; thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định của pháp luật ATVSLĐ; tăng cường công tác tự kiểm tra, giám sát ATVSLĐ, phòng chống cháy nổ tại doanh nghiệp, cơ sở, chủ động rà soát, đánh giá rủi ro, cải thiện điều kiện lao động cho người lao động.

9. Người lao động cần nâng cao ý thức tự giác, tuân thủ nghiêm ngặt các qui trình, nội qui làm việc an toàn tại nơi làm việc; chủ động và tích cực tham gia thực hiện các biện pháp phòng ngừa, cải thiện điều kiện lao động .

Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng !

PHƯƠNG MINH ( thực hiện)

Nguồn Dân Sinh: http://baodansinh.vn/nhung-tac-dong-cua-hiep-dinh-cptpp-doi-voi-cong-tac-atvsld-d96737.html