Những người đàn bà nơi cửa biển

Dù nắng hay mưa, đêm lạnh hay sương gió, hằng đêm, những phụ nữ miền biển đều có mặt tại cảng cá Cửa Sót đợi thuyền về. Với họ, đây không chỉ là công việc mưu sinh mà còn là nghề để gắn bó.

Nữ phu trong đêm

Sau sự cố môi trường biển tại Hà Tĩnh, một thời gian dài các cảng cá cũng neo dần những con thuyền cập bến, vắng dần những bóng người giao thương. Tuy nhiên, sau cố gắng không mệt mỏi của các cấp, các ngành và nhân dân, môi trường biển Hà Tĩnh đang dần lấy lại “phong độ”. Ngư trường rộn rã trở lại, nghề nuôi trồng thủy, hải sản dần được khôi phục.

Để tăng thêm thu nhập, họ không ngần ngại ới nhau “đi đêm” kiếm tiền. Nắng hay mưa, đêm lạnh hay sương gió, các chị em vẫn thường trực tại cảng cá Cửa Sót (Thạch Kim, Lộc Hà, Hà Tĩnh) đợi thuyền về.

Bến cảng khi trời nhá nhem tối, nhiều tốp chị em ngồi co ro chụm đầu vào nhau ngái ngủ. Họ túm tụm, nhẫn nại chờ những con tàu từ trùng khơi trở về để gánh cá lên bờ. Nhìn vào những đôi mắt đỏ hoe vì mất ngủ, thân hình gầy còm, đôi vai bé nhỏ run lên theo từng đợt gió thốc mà xót xa. Họ bảo đó là nghề - cái nghề đã nuôi sống gia đình họ bao đời nay, dẫu biết rằng nó nặng nhọc, vất vả vô kể.

Hòa lẫn trong tiếng sóng vỗ rì rào, một phụ nữ trạc lục tuần bỗng dưng đứng phắt dậy hô to “tàu cập bến rồi”. Không ai bảo ai, các bà, các chị tản ra hướng về phía biển. Trong khung cảnh náo nhiệt ấy, bà Phạm Thị Lan (60 tuổi, thôn Long Hải, xã Thạch Kim) cùng những người khác tất bật với việc khiêng cá lên bờ. Bà Lan có thâm niên bốc vác lâu nhất với 25 năm. Bà bảo: “Ngày nào không được ngửi mùi tanh nồng, không được tắm nước đá ướp hải sản là ngày đó coi như đói”.

Dù đã 60 tuổi, cái tuổi được nghỉ dưỡng nhưng với bà Lan “muốn ăn thì lăn vào bếp”, còn sức nghĩa là còn lao động. Vì thế mà cứ khoảng 4 giờ sáng bà lại dậy, quần áo ra cảng khuân cá.

Phút giải lao, chị Nguyễn Thị Thu (xã Thạch Kim, Lộc Hà) chia sẻ: “Sau sự cố môi trường biển, ngư dân chúng tôi mất mát rất lớn, thu nhập giảm hẳn. Để vực lại, cả nhà ai ấy đều chung sức. Chồng theo thuyền ra khơi đánh bắt, tôi làm khuân vác, kiếm tiền nuôi 3 đứa con ăn học. Biết là cực lắm nhưng không làm thì lấy gì mà ăn? Thời gian đầu đi làm về, chân tay nhức mỏi, đầu cứ ong ong, mệt không nuốt nổi cơm nhưng vì cuộc sống, vì miếng cơm manh áo nên phải gắn bó”.

Vọng xa xa, một chị tên Nhung nói lớn: “Làm dần thành quen. Tôi đây nè, có ngày đội cả chục tấn cá trên đầu. Đội nhiều quá nó lõm mất một khúc rồi. Có lẽ đội cá nhiều mà đầu óc cũng lú lẫn đi, lúc nhớ lúc quên, thế nhưng khi nhận tiền thù lao thì đầu óc chị em lại sáng lên” - nghe chị Nhung nói xong thì các chị em đều cười ồ lên trong màn đêm như xóa đi sự mệt nhọc.

Trời đang dần sáng, bà Lan trầm ngâm: “Tối về nằm ngủ đứa nào cũng kêu người mẹ tanh quá, toàn mùi cá. Tôi đáp, ờ không có mùi cá thì chúng mày có tiền mà ăn, học không. Thế là mấy mẹ con lại cười khì khì”.

Vất vả… là may

Đây là nguồn sống của những người phụ nữ sống gần biển. Ảnh T.G

Đây là nguồn sống của những người phụ nữ sống gần biển. Ảnh T.G

Dù là nghề cực nhọc và bèo bọt nhưng không phải lúc nào cũng có việc để làm. Công việc của các “nữ phu” phụ thuộc cả vào con tàu vươn khơi. Có những chuyến tàu thất thu, đội quân khuân vác còn buồn hơn cả chủ tàu. Đó là chưa kể khi trời trở mùa, mưa bão triền miên ở nhà cả tháng là chuyện bình thường.

“Nghề này thu nhập bấp bênh lắm, mình ít học thì phải ráng dùng sức mà làm, được đồng nào hay đồng đó. Ngày thuyền về nhiều, một mình tôi phải “bao trọn” cả 5 - 6 thuyền. Dù mệt vẫn gắng làm vì không làm họ thuê người khác coi như mất thuyền. Ấy vậy mới nói, làm cái nghề này được vất vả là còn… may”, bà Nguyễn Thị Định tâm sự. Cũng theo bà Định, vì cái nghề bấp bênh nên nhiều người buộc phải tìm thêm nghề phụ để kiếm cái ăn hằng ngày như dán vàng mã, bán hàng ăn sáng…

Còn theo bà Phạm Thị Lan, mỗi lần khiêng cá được chủ tàu trả từ 20.000 - 30.000 đồng, có thuyền người ta cho mớ cá, mình đem bán hoặc đưa về ăn. Ngày nào thuyền về nhiều, có thể kiếm được 80.000 - 100.000 đồng, gặp hôm chủ tàu bội thu hoặc chủ thoáng sẽ “bo” thêm một ít nhưng chẳng đáng là bao. Cũng có hôm phải về tay không vì tàu thuyền về ít.

Cảng cá Cửa Sót hiện có gần 20 “nữ phu” làm nghề khuân vác cá, chủ yếu độ tuổi từ 40 - 65. Công việc vừa nặng nhọc, lại thường xuyên phải dầm mình dưới biển dù trời nắng đổ lửa hay lạnh cắt da, cắt thịt nhưng cứ có tàu thuyền cập cảng là chị em lại í ới gọi nhau ra biển.Với các bà, các chị, chỉ trừ những khi bệnh nặng mới nghỉ làm, còn cảm cúm qua loa vẫn phải gắng gượng vì nghỉ buổi nào mất tiền buổi ấy.

Hình ảnh những người phụ nữ “đầu trần chân đất” đội từng khay tôm, cá… từ dưới tàu lên bờ, người ướt nhẹm, run lên từng hồi vì nước đá ngấm vào người, khiến chúng tôi không khỏi chạnh lòng. Công việc nặng nhọc này đâu dành cho giới nữ, thế nhưng với họ đó là kế sinh nhai.

Mỹ Hoa

Nguồn GD&TĐ: http://giaoducthoidai.vn/thoi-su/nhung-nguoi-dan-ba-noi-cua-bien-4002301-b.html