Những bóng giếng Hà thành

Nằm trong không gian đồng bằng Bắc Bộ, Hà Nội là một trong những địa phương nổi tiếng bậc nhất với nhiều giếng làng cổ kính và rất đẹp. Trong dòng chảy thời gian, mỗi giếng là một số phận, có cái đoản mệnh, có cái đa đoan, lại có cái như biết nói, như biết nhắc người ta nhớ đến nó. Hơn hết, ngày nay nhớ đến những giếng làng, người ta sẽ nghĩ ngay đến mạch nguồn của văn hóa dân gian, là những ngày cuối năm, cả làng xóm tụ quanh miệng giếng để mổ lợn, lau lá, gói bánh chưng…

Nơi lưu giữ ký ức

Trong một dịp tình cờ khi tiếp chuyện với nhà nghiên cứu Nguyễn Tọa (Nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội) về sự hiện diện của những giếng làng trong đời sống, tôi biết rằng, cách đây khoảng 50 năm, những chiếc giếng khơi là một phần không thể thiếu của Hà Nội tạo nên nét “văn hóa giếng”. Đó không chỉ là nơi lấy nước mà còn thành chỗ tụ tập của đám trẻ con mỗi khi đi đá bóng về; nơi những ánh mắt của trai gái trao nhau mỗi khi gánh nước, rửa rau; chốn để các bà nội trợ chia sẻ câu chuyện tưởng như không bao giờ hết. Cánh đàn ông còn thả cả chai bia xuống giếng để làm lạnh.

Kỳ thực, cho đến nay, ở không ít nơi, bên những miệng giếng dịp cuối năm, người dân vẫn tụ tập rửa lá dong gói bánh chưng, mổ lợn cùng ăn Tết. Chẳng hạn, ở làng Yên Thôn (xã Thạch Xá, Thạch Thất) còn có tục vào đêm 30 Tết, người dân ra giếng làng gánh nước về lấy may. Hoặc cũng có nơi giờ vẫn còn giữ lệ trai đi lấy vợ phải ra giếng làng lấy nước về thổi xôi làm sính lễ. Trân quý và quan trọng nhưng giếng giờ cũng chẳng được vị thế như xưa. Nhắc chuyện này, nhà nghiên cứu Nguyễn Tọa bảo, đó là sự biến thiên tất yếu.

Giếng cổ Phú Diễn theo lối chân quỳ dạ cá.

Giếng cổ Phú Diễn theo lối chân quỳ dạ cá.

Phải. Khi có nước máy, giếng vẫn được dùng vì cả xóm phải dùng chung một vòi nước công cộng. Mất nước máy, giếng là lựa chọn duy nhất của dân trong phố. Khi nước máy vào từng nhà thì giếng khơi bỗng chốc bị… bỏ quên. Nguồn nước mát trong từ giếng khơi không còn được trọng dụng, người dân quên dần tính cộng đồng nơi sân giếng. Nay, có thể tìm thấy ở nhiều ngôi làng những giếng xưa cũ. Nhưng có một sự thật là hầu hết các giếng làng còn lại hiện nay đều chỉ như một… di sản của làng.

Đồng lòng gìn giữ

Đó là với góc nhìn nghiên cứu, với riêng cá nhân tôi, giếng vẫn hằn in như nguồn mạch của văn hóa dân gian. Quanh giếng cũng hội tụ không ít câu chuyện kỳ lạ. Ở di tích Đền Cổ Loa, huyện Đông Anh cũng vẫn còn di tích giếng Ngọc gắn với truyền thuyết chuyện tình của nàng công chúa Mỵ Châu. Dân ở đây cho rằng, những viên ngọc nếu được rửa bằng nước giếng này sẽ trở lại sáng đẹp. Hoặc ở Thượng điện chùa Linh Tiên quán, Hà Nội, có một giếng nước đặc biệt. Nước giếng quanh năm trong, ngọt và múc mấy cũng không cạn. Người dân vẫn lấy nước ở đây cúng tế thần tiên. Người bị thương, ốm đau hay mệt mỏi khi dùng nước giếng sẽ chóng bình phục, lành bệnh…

Rồi tại Đường Lâm (Sơn Tây), giếng còn mang ý nghĩa tâm linh như sự hưng vong của cả một làng. Tại đây, giếng thường rộng từ 3 - 5m, sâu trên 10m. Miệng giếng ghép bằng những tảng đá ong sần sùi, màu nâu trầm, rất bền và vững chãi. Hơn hết, bên đình Mông Phụ, còn có hai giếng cổ. Người làng thường bảo, giếng đã có tuổi đời 4 thế kỷ. Những giếng nước này tượng trưng cho đôi mắt rồng thiêng liêng của ngôi làng. Đó là những sự “lạ” quanh giếng mà tôi ghi được, nhưng để coi là kiến trúc độc đáo bậc nhất có lẽ phải kể đến giếng được đẽo đá nguyên khối theo thế “chân quỳ dạ cá” tại Phú Diễn (quận Bắc Từ Liêm). Làng Phú Diễn giờ đã ồn ào khác xưa. Vẫn xóm đấy làng đấy, vẫn ao sen sân đình nhưng không giấu nổi những xâm lấn phố phường. Có người tinh ý lại vui tính cứ ví Phú Diễn như cô gái xuân thì bước chân quê lên phố.

Độ sâu của giếng là 8 thước, và tang giếng bằng gạch xếp khít.

Vì đổi thay nhiều nên đi tìm một chút hồn làng lắng đọng sao khó quá. Nhưng may thay, chút hồn làng cỏn con cũng còn sót lại ở cái giếng ngay đầu Xóm Giếng. Bước chân qua con đường làng vốn ken đặc xe cộ là một khuôn viên nhỏ. Bao giếng này không hình lục lăng như thường thấy, người ta xây bao đến sát vỉa hè. Bên trong, chếch tay trái là chiếc giếng cổ, mà người làng vẫn quen gọi là giếng khơi. Người ta thấy cái hình ảnh miệng giếng đẹp đẽ làm bằng đá tròn nguyên khối ẩn đủ những nắn nót của nghệ nhân.

Chếch sang phía bên phải vài thước là ban thờ nhỏ. Thì ra ở Phú Diễn, giếng cũng có thần bản thổ. Vẫn được hương hoa suốt ba mươi ngày trong tháng. Nếu thực có thần linh, thì hẳn thần giếng đây cũng hài lòng trước tâm tôn kính của nhân quần. Gần đó, một bia đá của thời mới, có ghi: “Giếng khơi làng Phú Diễn là ngôi giếng cổ. Tuy chưa biết đích xác niên đại. Nhưng những sợi dây gàu cọ vào miệng giếng có nhiều vết lõm rất sâu, là dấu ấn thời gian giếng tồn tại đã lâu đời. Vành giếng liền tròn, chạm chân quỳ dạ cá tinh xảo.

Người làng đến nay vẫn bảo, mạch nước giếng dồi dào, trong mát cung cấp cho cả làng dùng từ thế hệ này qua thế hệ khác quanh năm không bao giờ cạn, là nguồn sống của bao đời. Thế mới biết, giếng cổ ấy không chỉ là bảo vật làng hoặc chứng tích khai lập thổ cư xưa kia. Giếng đã được tôn thành “ngôi”, thì tất không thể thường được. Cứ những chữ nghĩa ấy mà xét mới thấy những giá trị không dễ cân đo của người Phú Diễn. Lại nói về những nét chạm khắc chân quỳ dạ cá, theo chút kiến thức nhỏ bé có được, tôi thấy cái thế chân quỳ dạ cá ấy mà người thợ lấy dáng cho miệng giếng kia đã cố cách điệu từ hình hoa sen. Ở gờ giếng có đường soi xung quanh nắn nót lắm.

Và ở cái gờ soi này, tôi đếm đủ 72 vết rãnh do những dây gầu kéo nước tạo ra. Cái thế bụng cá phình to nhưng chân quỳ chắc chắn tạo cho giếng cổ như vừa có khí thiêng, lại uy nghi lẫm liệt như giếng cung vua phủ chúa. Các bậc nho lão xưa của Phú Diễn chắc rằng không học đòi lối ấy, nhưng cũng sùng mộ đạo Phật mà cách điệu hoa sen cho tỏ chút chí tình. Cũng may, bảo vật quý không bị phá đi, lấp mất giữa cái thời mọi thứ có thể bị phá và lấp.

Nhớ lại, quãng thời điểm năm 2015, tôi từng có cơ may gặp ông Trần Đức Chính. Ông Chính là con trai cụ đồ Tái nổi tiếng bậc nhất Phú Diễn nên cũng rõ sử làng hơn ai hết. Ông bảo, trước làng Phú Diễn không ở đây, mà ở cạnh Cầu Sắt. Vì cha ông có va chạm với người Cổ Nhuế nên mới chuyển nơi ở đến chỗ này. Còn nói làng có đến nghìn tuổi không, thì ông lắc đầu, vỏn vẹn bảo tuổi làng chỉ ước chừng vào khoảng bốn đến sáu trăm năm gì đó.

….Thế mới rõ, người xưa lập làng là tìm nơi có mạch nước tốt để đào giếng. Giếng gắn liền với làng, giống như một sự đảm bảo cho cuộc sống, sự an cư lạc nghiệp của cha ông ta từ xưa. Thật mừng khi nay ai nấy về Phú Diễn, tìm chiếc giếng khơi miệng làm bằng đá tròn nguyên khối vẫn được được người dân gìn giữ rất có ý thức. Giếng được bao quanh tường rào, cổng vào có đôi câu đối: “Thủy mạch khai thông linh khí tại /Thạch nhi tái tạo thụy phong lai” như lời nhắn nhủ đầy thương nhớ đến một địa điểm gần gũi với làng xã. Nơi có những con người thuần phác, những ngày Tết đến lại xôm tụ, cười nói với nhau bên miệng giếng làng.

Thảo Phạm Lê

Nguồn LĐTĐ: http://laodongthudo.vn/nhung-bong-gieng-ha-thanh-86545.html