Những bằng chứng lịch sử vững chắc về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa

Việt Nam là một trong những quốc gia có lợi thế, tiềm năng to lớn về biển với vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán rộng khoảng 1 triệu km2. Bờ biển dài khoảng 3.260km, hơn 4.000 đảo lớn, nhỏ khác nhau, trong đó có các đảo nằm ở vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Các đại biểu, học sinh và cán bộ, chiến sỹ BĐBP Bình Định nghe thuyết trình bản đồ tư liệu về Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Ảnh: Công Cường

Các đại biểu, học sinh và cán bộ, chiến sỹ BĐBP Bình Định nghe thuyết trình bản đồ tư liệu về Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Ảnh: Công Cường

Biển Đông là vùng biển có vị trí ở rìa Tây Thái Bình Dương, có diện tích lớn thứ 4 thế giới, vào khoảng 3,5 triệu km2. Việt Nam là một trong 9 nước tiếp giáp với Biển Đông ở phía Đông và phía Nam. Bên cạnh đó, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam nằm giữa Biển Đông. Nhờ nằm trên tuyến giao thông biển huyết mạch nối liền, Biển Đông được coi là tuyến đường quốc tế quan trọng về địa - chiến lược, an ninh và kinh tế đối với các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và các quốc gia khác nói chung.

Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, trong đó có Malacca là eo biển vị trí quan trọng trên hệ thống thương mại Biển Đông. Ngay từ thế kỷ XVII, Việt Nam đã xác lập, thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi hai quần đảo này còn là lãnh thổ vô chủ và có thể nói là quốc gia duy nhất thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này hòa bình, liên tục và không gặp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào. Đây là hai quần đảo tiền tiêu của Tổ quốc; là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.

Thực tế này được minh chứng trong nhiều tư liệu, sách cổ, văn bản pháp lý của Nhà nước, bản đồ thể hiện việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được lưu giữ tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới như: Toàn tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá, tự Công Đạo (1686); Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1776); Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821); Hoàng Việt địa dư chí (1833); Đại Nam thực lục tiền biên (1844-1848); Đại Nam thực lục chính biên (1844-1848), Việt sử cương giám khảo lược (1876), Đại Nam nhất thống chí (1882); Dư địa chí Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ (1910); Hải ngoại ký sự (năm 1696) của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán; Quốc triều chính biên toát yếu (1910), An Nam đại quốc họa đồ của giám mục người Pháp Louis Taberd, Đại Nam nhất thống toàn đồ (Bản đồ chính thức của triều Minh Mạng)... Đặc biệt, bộ Atlas thế giới của Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827, tại Bỉ, trong đó, vẽ và miêu tả rõ quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ của Vương quốc An Nam.

Ngoài ra, các Châu bản triều Nguyễn là các văn bản hành chính chính thức của triều đình nhà Nguyễn (thế kỷ XVII - XVIII) có dấu son của vua, là bằng chứng lịch sử khẳng định, việc Nhà nước phong kiến Việt Nam đã xác lập và triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo như hàng năm cử các đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải ra hai quần đảo khai thác các tài nguyên sản vật trên biển và thu lượm hàng hóa trên các tàu bị đắm; đo đạc vẽ bản đồ; dựng bia, lập miếu, trồng cây, cứu trợ các tàu thuyền nước ngoài gặp nạn... Đây là các tài liệu quý giá của triều đình nhà Nguyễn để lại cho thế hệ sau, khối tài liệu Châu bản đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu cấp quốc tế.

Trong thời kỳ Pháp thuộc, với tư cách đại diện cho Việt Nam về đối ngoại theo Hiệp ước Patenôtre (năm 1884), chính quyền thuộc địa Pháp đã có nhiều hoạt động cụ thể củng cố chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ những năm 30 của thế kỷ XX, Pháp đã quy thuộc hai quần đảo vào các tỉnh đất liền, đặt quân đồn trú, xây cột mốc chủ quyền, xây hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện trên hai quần đảo. Trong quan hệ quốc tế, Pháp đã nhiều lần lên tiếng phản đối các đòi hỏi chủ quyền của các nước khác đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 10-1950, Pháp đã chuyển giao quyền quản lý hai quần đảo cho quốc gia Việt Nam.

Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng được thừa nhận tại Hội nghị San Francisco (tháng 9-1951) - hội nghị giải quyết vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ sau chiến tranh thế giới thứ 2 với sự tham dự của đại diện 51 quốc gia. Với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp, phái đoàn quốc gia Việt Nam đại diện cho Nhà nước Việt Nam do Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trần Văn Hữu thuộc Chính phủ Bảo Đại làm trưởng đoàn đã tham gia hội nghị.

Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Trần Văn Hữu đã tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông Trần Văn Hữu nhấn mạnh: “... để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam”. Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San Francisco ghi vào biên bản và không gặp phải sự bảo lưu hay phản đối nào của đại diện các nước tham dự hội nghị.

Thu Minh (tổng hợp)

Nguồn Biên Phòng: http://bienphong.com.vn/nhung-bang-chung-lich-su-vung-chac-ve-chu-quyen-cua-viet-nam-doi-voi-quan-dao-truong-sa-va-hoang-sa/