Người con xứ trầm hương

Đại tá Trần Văn Thà là nguyên mẫu trong vở kịch nổi tiếng 'Đại đội trưởng của tôi' của tác giả Đào Hồng Cẩm. Trong 930 ngày đêm làm Chỉ huy trưởng đảo Cồn Cỏ, với biệt danh 'Con cọp đen', ông và 129 cán bộ, chiến sĩ trên đảo đã đi vào những thước phim và tác phẩm nổi tiếng 'Họ sống và chiến đấu' của nhà văn Nguyễn Khải…

Cựu chiến binh Trần Văn Thà khám bệnh cho bệnh nhân tại Phòng khám đa khoa, Hội Cựu chiến binh tỉnh Khánh Hòa. Ảnh: Nguyễn Khổng Thủy

Những năm tháng chiến tranh khốc liệt…

Trong một lần Báo Quân đội nhân dân và Đài Truyền hình Việt Nam phối hợp tổ chức buổi giao lưu “Tổ quốc và người chiến sĩ”, tôi may mắn được trò chuyện cùng nguyên mẫu, vị Đại đội trưởng - nhân vật chính trong vở kịch “Đại đội trưởng của tôi”, đó là Đại tá Trần Văn Thà. Tôi đã được nghe ông kể về những năm tháng sống, chiến đấu, chỉ huy chiến đấu tại đảo Cồn Cỏ (1965-1967) và mặt trận Quảng Trị xuân 1968. Năm ấy ông mới tròn 39 tuổi, mang quân hàm Đại úy, chức Tiểu đoàn trưởng.

Ông sinh năm 1929, quê ở xã Ninh Hưng, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Người đảng viên với 60 năm tuổi Đảng, thương binh loại 3/4 này đã có 39 năm, 3 tháng cầm súng chiến đấu. Ông đã từng chỉ huy từ cấp Tiểu đội trưởng đến Trung đoàn trưởng, cùng đồng đội đánh 380 trận lớn nhỏ, tiêu diệt 2.660 tên ngụy, 246 tên Mỹ, bắt sống 56 tù binh (trong đó có 2 tên Mỹ); bắn chìm, bắn cháy 50 tàu chiến, tàu vận tải của Mỹ-ngụy; bắn rơi 53 máy bay các loại; bắn cháy 51 xe tăng-thiết giáp, 5 kho hàng chiến tranh của Mỹ-ngụy. Đặc biệt, thời kỳ làm Chỉ huy trưởng đảo Cồn Cỏ, với biệt danh “Con cọp đen”, ông và 129 cán bộ, chiến sĩ trên đảo đã đi vào những thước phim và tác phẩm nổi tiếng “Họ sống và chiến đấu” của nhà văn Nguyễn Khải.

Đêm 25-12-1967, ông được điều về đất liền. “Vừa đặt chân lên đất Vĩnh Linh, nghe tiếng trẻ khóc từ dưới hầm vọng ra, tôi không sao cầm được nước mắt. Thật kỳ diệu, giữa chảo lửa Vĩnh Linh, nơi kho bom, túi đạn của giặc Mỹ trút xuống mà sự sống vẫn đâm chồi nảy lộc, bất giác lòng tôi cồn cào nỗi nhớ vợ, con” - Ông bồi hồi kể lại. Ngày 14-1-1968, ông được giao chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 47. Suốt 108 ngày đêm chiến đấu quyết tử bên sông Cửa Việt, ông và các đồng đội được giao nhiệm vụ chặn đứng sự tiếp tế của Mỹ, ngụy bằng đường sông từ Cửa Việt lên Đông Hà, Tà Cơn, Khe Sanh; phối hợp cùng địa phương đánh chiếm, giữ vững đoạn sông từ chợ Hôm đến ngã ba sông Bồ Điền (sông Hiếu).

Trong trận đánh ngày 21-1-1968, Tiểu đoàn 47 tiêu diệt 2 máy bay, 6 xe tăng, 5 tàu hộ tống, hơn 300 tên ngụy và 25 tên Mỹ. Bên ta tổn thất cũng không nhỏ: 33 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, 71 người bị thương, trong đó có 2 liệt sĩ là phóng viên Báo Quân đội nhân dân: Lê Đình Dư và Nguyễn Ngọc Nhu. Cấp ủy Tiểu đoàn họp, biểu quyết 5/6 người đồng ý rút ra. Riêng ông không đồng ý vì cho rằng, ta tuy có thiệt hại nhưng trận địa vẫn còn, địch là kẻ bị động và thiệt hại nhiều hơn, sao ta không củng cố lực lượng để tiếp tục chiến đấu?

Thấy đoàn quân rút ra, ông chạy lên trước đội hình và kêu lớn: “Tôi kêu gọi anh em ở lại cùng tôi đánh giặc, giữ vững bờ sông Cửa Việt, dù phải hy sinh. Tôi không ra lệnh mà kêu gọi ai đồng tình thì ở lại cùng tôi”. Có hơn 100 người ở lại, ông hỏi, “những ai là đảng viên cộng sản thì giơ tay”? Dưới ánh pháo sáng địch, 39 cánh tay giơ cao. Sau đó, lần lượt Ban Chỉ huy Tiểu đoàn cũng ở lại, đơn vị đã củng cố trận địa, tổ chức chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mặt trận giao cho. Ngày 9-5-1968, Tiểu đoàn được lệnh vượt Cửa Tùng về Vĩnh Linh chuẩn bị cho nhiệm vụ mới.

Còn khỏe thì còn đi tìm đồng đội

Năm 1983, ông trở về đời thường với bao lo toan cho cuộc sống. Đất nước trải qua chiến tranh nhưng khó khăn về xã hội, thiếu thốn về vật chất thì vẫn chồng chất. Hai vợ chồng với 3 người con trông đợi những đồng lương hưu ít ỏi của ông. Trong chiến tranh, cái chết ông không sợ, nhưng bây giờ làm gì để kiếm ra tiền nuôi gia đình? Ông tìm tòi, học hỏi làm kinh tế bằng nhiều cách, từ làm xà phòng cục 62% bán ở thị trường đến làm dầu gan cá nổi danh trên nhiều vùng quê, rồi làm thuốc chống nhức mỏi chế biến từ rắn biển... Ông làm đủ nghề để kiếm tiền nuôi gia đình.

Với đam mê làm lương y chữa bệnh và đã từng cứu chữa nhiều đồng đội bằng thuốc nam trong chiến tranh, ông vào thành phố Hồ Chí Minh học thêm kiến thức về y học dân tộc. Nhờ chịu khó nghiên cứu, học hỏi và sưu tầm các bài thuốc gia truyền của các lương y xa, gần, ông có nhiều bài thuốc quý và đã chữa trị thành công cho nhiều bệnh nhân, trong đó, nhiều người là đồng đội cũ. Điều đáng quý ở ông là chữa bệnh từ thiện, ông không lấy tiền của bất cứ ai. Nhiều bệnh nhân được ông chữa khỏi đã gửi thư cảm ơn, coi ông như ân nhân của mình. Lúc đau yếu không đi được thì ông bảo con cháu đưa đến, mỗi tuần ông dành 3 ngày khám, cho thuốc miễn phí cho các cựu chiến binh không có chế độ và thân nhân của họ cùng các hộ nghèo và người cô đơn không nơi nương tựa.

Ông Thà luôn đau đáu những nỗi niềm về những người đồng đội đã ngã xuống mà người thân của họ chưa tìm được hài cốt. Từ năm 1994, ông đi tìm đồng đội bằng nghĩa tình, sức lực và bằng chính đồng lương ít ỏi của mình. Liệt sĩ - nhà báo Nguyễn Ngọc Nhu là liệt sĩ thứ 125 mà ông tìm được vào năm 2005. Trong cuộc chiến 108 ngày đêm bên sông Cửa Việt, có hai phóng viên Báo Quân đội nhân dân đi cùng đơn vị, họ đã cầm súng chiến đấu như những người lính và đã anh dũng hy sinh. Vào những ngày tháng 7-1999, ông trở lại Gio Linh sau hơn 30 năm. Không chỉ là cuộc thăm viếng chiến trường xưa, lần này ông về có cả vợ con của nhà báo, liệt sĩ Lê Dình Dư là bà Hồ Thị Kim và con gái Lê Hồ Hương, từ thành phố Hồ Chí Minh ra, để giao lại phần mộ liệt sĩ mà ông là người trực tiếp chôn cất.

Cảnh xưa, chốn cũ đã không còn, tất cả thay đổi đến không ngờ! Những ngôi mộ liệt sĩ chôn vội trong chiến tranh, bây giờ hầu hết bị mất dấu, hoặc đã được di dời về nghĩa trang liệt sĩ. Với trí nhớ của người lính đã từng qua công tác tham mưu, trinh sát và có lẽ, “nhờ hương hồn của liệt sĩ Lê Đình Dư phù hộ”, cuối cùng ông và các cán bộ địa phương xã Gio Mai đã tìm đúng vị trí nơi yên nghỉ của liệt sĩ Lê Đình Dư. Ông đã cùng vợ con của liệt sĩ Lê Đình Dư lập bia thờ trong nghĩa trang Dốc Miếu (Gio Linh, Quảng Trị). Hơn 30 năm trước, khi tự tay ông bỏ chiếc máy ảnh vào phần mộ, ông đã tự hứa với lòng mình, sau này sẽ cố tìm thân nhân của liệt sĩ để giao lại cho dù một chút hình hài. Bây giờ, điều đó coi như đã toại nguyện. Một niềm vui nữa lại đến với ông dẫu rằng điều đó hơi muộn, liệt sĩ, nhà báo-chiến sĩ Lê Đình Dư cũng đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Ngày 23-5-2011, ông Thà có đơn gửi cơ quan chức năng xin được phép từ chối nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, sau khi Ban Chỉ huy Quân sự huyện, Thường vụ Huyện ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự Khánh Hòa và Tiểu đoàn 47, Trung đoàn 270 cùng các cựu chiến binh làm thủ tục đề nghị trên phong tặng danh hiệu cao quý này cho ông. Ông bảo, nếu trời cho còn sức khỏe, ông còn đi tìm đồng đội, còn đi khám chữa bệnh cho mọi người. Vì ông là đảng viên, là Bộ đội Cụ Hồ, là người con của xứ trầm hương.

Lê Quý Hoàng

Nguồn Biên Phòng: http://bienphong.com.vn/nguoi-con-xu-tram-huong/