Người Anh hùng thắp sáng nơi tận cùng núi rừng Tây Bắc

Ngày 11-7-2020, Trường PTDTBT Tiểu học Mù Cả (huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) đón Bằng công nhận chuẩn Quốc gia cấp độ 1 và kỷ niệm 60 năm thành lập (1959/1960 – 2019/2020).

Các thầy cô giáo và học sinh cùng hàng nghìn người dân khắp các bản làng về dự. Bầu trời Mù Cả hôm ấy trong xanh lắm, trong lòng ai cũng xúc động và nhớ người thầy giáo ở miền xuôi đã có công dựng trường, mở lớp 60 năm trước. Anh hùng Lao động đầu tiên của ngành giáo dục nước Việt Nam, thầy giáo Nguyễn Văn Bôn.

 Bằng tuyên dương Anh hùng Lao động đầu tiên của ngành giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 3-6-1962. Ảnh: Tuấn Huy.

Bằng tuyên dương Anh hùng Lao động đầu tiên của ngành giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 3-6-1962. Ảnh: Tuấn Huy.

Gửi tuổi 20 lên “sơn cùng thủy tận”

Một chiều hè oi ả giữa tháng 7, chúng tôi về Hải Phòng tìm đến thăm thầy giáo Nguyễn Văn Bôn. Những người hàng xóm của ông đều không biết khi tôi hỏi nhà Anh hùng Nguyễn Văn Bôn. Họ chỉ tay rồi nói, đó chỉ có nhà thầy giáo Bôn thôi... Thời gian cũng quá lâu rồi, có lẽ họ không để ý và biết rằng, ông thầy giáo già ấy từng là người đã "đốt trái tim" mình thành ngọn đuốc soi sáng nơi mịt mù tăm tối nhất của núi rừng Tây Bắc. Căn nhà nhỏ nằm nép bên con phố Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần phía trước cho thuê, phần phía sau là nơi ở một mình của người thầy giáo nay đã bước sang tuổi 84. Tiếp chúng tôi trong căn phòng đơn sơ, không treo một tấm bằng khen hay danh hiệu nào cả, “Người Anh hùng” vẫn tráng kiện, minh mẫn, bình dị kể về cuộc đời với lẽ sống hiến dâng của mình.

Nguyễn Văn Bôn sinh năm 1937 ở vùng quê Bắc Ninh, lên 7 tuổi đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, một mình bà ngoại nuôi hai anh em khôn lớn. Học hết lớp 9, Bôn đi công tác ở Ty Thủy lợi Hà Ðông (nay thuộc Hà Nội). Tháng 10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi chống nạn thất học. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ”. Năm 1956, chàng thanh niên Nguyễn Văn Bôn theo học Trường Sư phạm sơ cấp Trung ương (nay là Trường CÐSP Trung ương) rồi về dạy học ở Thái Bình. Năm 1959, theo lời kêu gọi của Ðảng và Bác Hồ đưa đội ngũ giáo viên xung phong lên dạy học ở Tây Bắc (khi đó còn là khu tự trị Thái Mèo), Nguyễn Văn Bôn viết đơn xin đi. Ông Bôn nhớ mãi ngày Bác Hồ đến động viên anh em trước lúc lên đường, Bác nói: "Nếu cháu nào sức yếu, có bệnh thấp khớp hay tim mạch thì nên ở lại". Chàng thanh niên 22 tuổi chỉ nghĩ đơn giản, mình còn trẻ phải sống có lý tưởng, phải dám làm những nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân đang cần. Khi đó chuyện hẹn hò của Nguyễn Văn Bôn với cô gái Phạm Minh Huệ ở Đoàn Văn công Khu Tả Ngạn vừa chớm nở được mấy tháng. Nhiều đêm anh thức trắng nghĩ về tình cảm cá nhân, về người con gái mà anh rất mực yêu thương nhưng rồi vì nhiệt huyết, vì lý tưởng của tuổi trẻ, anh quyết định ngược lên nơi rừng xanh núi đỏ. Hành trang của những người thầy giáo nhận nhiệm vụ cắm bản đầu tiên lúc đó chỉ có một chiếc chăn chiên, chiếc áo bông và nắm thuốc ký ninh để chống sốt rét.

Vợ chồng thầy giáo Nguyễn Văn Bôn – Phạm Minh Huệ cưới nhau năm 1966. Ảnh nhân vật cung cấp

Sau hơn hai ngày ngồi trên xe tải, thầy Bôn cùng 18 thầy giáo nữa đi từ Sơn La vào thị trấn Lai Châu (nay là thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên), rồi đi bộ ba ngày mới vào đến huyện lỵ Mường Tè. Tiếng là huyện lỵ nhưng khi đó chỉ có vài dãy nhà lá của cán bộ vùng cao chứ chưa có dân sinh sống. Ngày hôm sau, các thầy giáo chia nhau ra từng địa bàn, Nguyễn Văn Bôn được một người đàn ông Hà Nhì dẫn đi bộ xuyên rừng thêm ba ngày để vào xã Mù Cả. Mấy ngày đường nói chuyện, người đàn ông Hà Nhì nói bập bõm tiếng phổ thông biết chuyện thầy giáo lên dạy chữ cho đồng bào nên cảm phục lắm. Người đàn ông tên là Pờ Sa Há nói với thầy giáo Bôn rằng: “Tao đã dừng làm nhiều việc xấu rồi nên bây giờ có cán bộ lên dạy cái chữ Bác Hồ, cho hai đứa con tao theo học với”. Mãi sau này khi Pờ Ha Sá bị công an vũ trang bắt giam, thầy giáo Bôn mới biết người đàn ông đó từng là tướng phỉ vậy mà vẫn gửi con cho anh dạy dỗ.

Mù Cả đã thành... “sáng cả”

Thầy Bôn nhớ lại, toàn xã Mù Cả khi đó có khoảng 500 dân, sống rải rác khắp 11 bản. Cả cán bộ xã và người dân đều không biết nói và viết tiếng phổ thông, ủy ban phải nhờ một người Thái biết cả tiếng Hà Nhì và tiếng phổ thông lên làm phiên dịch suốt một năm trời. Thời gian này, thầy Bôn cũng tranh thủ học tiếng Hà Nhì. Những ngày đầu, Nguyễn Văn Bôn bàn với cán bộ và bà con sẽ dạy chữ cho khoảng 40 em trong toàn xã (tuổi từ 7 đến 12) và thống nhất các em đi học phải mang theo gạo và quần áo. Ngay sau đó, anh bắt tay vào cùng thanh niên trong bản chặt gỗ, tre để dựng trường, dựng lớp. "Trường ông Bôn" là công trình công cộng duy nhất ở Mù Cả vào thời điểm đó. Đêm trước ngày “khai giảng” (10-9-1959), chàng trai trẻ Nguyễn Văn Bôn gần như không ngủ, khi trời tờ mờ sáng, anh đứng trước ngôi trường còn thơm mùi gỗ mà bỗng... bật khóc. Ông Bôn kể: “Sáng hôm ấy, đúng giờ tập trung, học sinh từ các bản đã có mặt đông đủ, quần áo sặc sỡ, mắt đứa nào cũng tròn xoe ngơ ngác nhìn tôi. Buổi học đầu tiên, tôi dạy các em cách gọi thầy giáo, cách xưng tên mình. Sau đó tôi dạy các em một bài hát về thể dục: Ngồi mãi mỏi lưng/viết mãi mỏi tay/ Thể dục thế này/ là hết mệt mỏi. Lên lớp, thầy giáo chỉ có một hộp phấn, một quyển sách vỡ lòng, tôi viết lên bảng, tiếng trẻ đọc vang khắp bản. Các em không có giấy bút, tôi chia phấn cho từng em, bảo các em tập viết vào cổ tay mình. Những hôm sau, tôi lấy tàu lá chuối gấp thành vở để chia cho các em tập viết, mỗi em đẽo một cái bút gỗ theo cây bút của thầy. Học trò ở nội trú, ngày chỉ lên lớp một buổi nên tôi nghĩ ra nhiều việc, nhiều trò chơi để các em vơi nỗi nhớ nhà: Thầy nhặt bưởi về dạy các em đá bóng, đi hái nấm, bẻ măng, bắt cá về cải thiện bữa ăn. Ăn không hết thì mang phơi khô dự trữ”.

Hết học kỳ 1 năm học đó, thầy Nguyễn Văn Bôn về châu, rồi về Trung ương họp mới biết Mù Cả tập hợp được đông số học sinh nhất so với các xã vùng cao dân tộc thiểu số khác. Gần như 100% trẻ em Mù Cả trong độ tuổi đã đến trường, trong khi các xã khác chỉ có 4-5 em. Về xã, thầy Bôn nghĩ cách để cả bản, cả xã dạy nhau học nên đề nghị xã cho nghị quyết: Mỗi bản phải cử một vài thanh niên đến học thầy Bôn mỗi tối, học liền trong hai tháng. Khi thuộc hết chữ trong cuốn sách vỡ lòng, họ trở về bản và xóa mù cho những người khác. Sáng sớm, thầy Bôn dạy chữ cho người đi nương, rời con chữ trên bảng, họ lại được thầy Bôn lấy phấn viết chữ trên lưng trâu để vừa đi vừa ôn bài. Chiều tối là lớp học bên bếp lửa của các bà, các mẹ. Suốt nhiều tháng ròng, mỗi ngày thầy giáo trẻ Nguyễn Văn Bôn đứng ở 4 lớp như thế. Nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ của cả thầy và trò, năm 1963, Mù Cả là xã đầu tiên của rẻo cao phía bắc được ghi nhận đã xóa nạn mù chữ. Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên khi đó đã biểu dương, thầy Bôn là “cha đẻ” của mô hình nuôi học sinh tại nhà dân ở miền Bắc. 5 năm sau ngày thầy Bôn lên dựng trường, Mù Cả trở thành gương sáng hàng đầu về giáo dục của miền núi nước ta. Đó từng là điều không tưởng với một vùng đất mông muội, tách biệt phía sau thăm thẳm núi cao mây mù với cộng đồng dân tộc Hà Nhì từng được gọi là “U ní” (mông muội). Tháng 6-1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tuyên dương Anh hùng Lao động đầu tiên của ngành giáo dục nước Việt Nam mới trao tặng thầy giáo Nguyễn Văn Bôn.

Lứa học trò 40 em đầu tiên của thầy Bôn năm ấy có 35 người đã học hành đỗ đạt, đóng góp công sức trong việc xây dựng mảnh đất Mường Tè, Lai Châu. Có những người Hà Nhì thành đạt như nguyên Ðại biểu Quốc hội khóa XII, nguyên Phó chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh Lai Châu Pờ Go Sừ; nguyên Phó trưởng Phòng Giáo dục huyện Mường Tè Pờ Phí Nhù.

Di sản của “Người Anh hùng”

Thời gian đã trôi đi hơn 60 năm, chàng thang niên năm nào hóa thân thành ông tiên dạy chữ ở Mù Cả nay đã là một ông già 84 tuổi. Thầy giáo Nguyễn Văn Bôn công tác tại Mù Cả đến năm 1964 rồi về dạy học tại Hải Phòng cho đến khi nghỉ hưu. Trong suốt 5 năm gửi mình lên biên ải, thầy giáo Bôn vẫn “nuôi dưỡng” tình yêu với cô văn công Phạm Kim Huệ, hai người cưới nhau năm 1966 và có 5 người con. Chỉ tiếc là bà đã rời xa ông hơn 20 năm, để ông hiện sống một mình trong căn phòng nhỏ.

Thầy giáo Nguyễn Văn Bôn trở lại Mù Cả năm 1999, có nhiều học trò cũ đã đi bộ nhiều cây số theo chân ông. Ảnh nhân vật cung cấp.

Anh hùng Lao động Nguyễn Văn Bôn trở lại trong vòng tay yêu thương của bà con Hà Nhì, xã Mù Cả, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Ảnh nhân vật cung cấp.

Người dân ở Mường Tè bây giờ vẫn nhắc lại, năm 1999 thầy giáo Nguyễn Văn Bôn trở lại Mù Cả sau 35 năm. Những học trò cũ của ông giờ có người là đại biểu Quốc hội; Trưởng Ban tuyên giáo tỉnh; Phó bí thư Thường trực huyện ủy... Họ đón ông Bôn như đón một vị cứu tinh trong đời. Lúc chia tay, có những người học trò đã đi bộ theo tới 4-5km rồi cứ ôm lấy ông mà khóc...

Hôm chúng tôi đến thăm rồi nói chuyện đang huy động kinh phí xây dựng phòng ăn cho Trường Mầm non Mù Cả, không chút đắn đo, ông vào buồng đếm 10 triệu đồng tiền mặt đưa cho tôi. Ông nói: “Vừa rồi Trường Tiểu học xã Mù Cả kỷ niệm 60 năm thành lập mời ông lên, ông ốm không lên được. Hãy cho ông gửi chút tình cảm về với đồng bào. Trái tim ông vẫn một phần nằm lại Mù Cả”. Ngồi một lát, ông Bôn lấy ra tấm bằng tuyên dương Anh hùng Lao động đã gần 60 năm được cuộn lại sắp mục. Tôi hỏi: “Ông ơi sao ông không ép hay lồng khung treo lên chứ để thế này sẽ hỏng hết. Ông là Người Anh hùng đầu tiên của "nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý" đấy”. Ông Bôn chỉ cười không nói gì... Hẳn là ông nghĩ, những cống hiến, hy sinh của mình chỉ đơn giản là một lẽ sống chứ không thể hiện bằng bất cứ danh hiệu nào. Với người thầy giáo già ấy, di sản ông để lại không chỉ là một xã vùng cao đầu tiên xóa mù chữ cách đây gần 60 năm; không chỉ là mô hình nuôi học sinh đầu tiên tại nhà dân được duy trì đến tận bây giờ; không chỉ là nhiều học trò thành đạt, đóng góp cho xã hội; không chỉ là thay đổi nhận thức một cộng đồng dân tộc thiểu số... Mà di sản của ông ấy để lại còn là niềm tin về sự hy sinh quên mình để dám sống cho những lý tưởng tốt đẹp; Là biểu tượng tinh thần cho những người đi gieo chữ ở vùng cao đến tận hôm nay.

Thầy giáo Nguyễn Văn Bôn gửi một phần lương hưu lên ủng hộ học sinh mầm non ở Mù Cả. Ảnh: Tuấn Huy.

Các cháu ngồi nghe ông mình là “Anh hùng” Nguyễn Văn Bôn kể chuyện. Ảnh: Tuấn Huy

Và ở cách xa nơi ông ở gần 1.000km, giữa những bản làng tận cùng phên giậu miền Tây Bắc đất nước, đồng bào Hà Nhì vẫn giữ hình ảnh ông trong tim. Các thầy cô giáo xung phong đi cắm bản ở Mù Cả, những lúc khó khăn tuyệt vọng nhất lại nghĩ về ông để tìm thấy sức mạnh cho mình.

Trường PTDTBT Tiểu học Mù Cả kỷ niệm 60 năm thành lập, ngôi trường do thầy giáo Nguyễn Văn Bôn khai mở. Ảnh: Quang Thảo.

Cách đây đây ít ngày, trong lễ kỷ niệm 60 năm ngôi trường do ông khai mở, thầy Nguyễn Quang Thảo, Phó hiệu trưởng Trường PTDTBT Tiểu học Mù Cả đã nói với tôi rằng:

"Buổi sáng hôm ấy, không biết bao nhiêu ánh mắt và trái tim của bà con nhân dân các dân tộc cùng các em học sinh, thầy cô giáo xã Mù Cả đã dõi về đầu bản, mong được nhìn thấy bóng dáng của Thầy trong ngày trọng đại. Tất cả chúng con vẫn đợi Thầy trở lại quê xưa".

Đó chính là di sản của Người Anh hùng.

TRƯỜNG GIANG-TUẤN HUY

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/ho-so-su-kien/cuoc-thi-viet-noi-theo-guong-sang-bac-ho/nguoi-anh-hung-thap-sang-noi-tan-cung-nui-rung-tay-bac-627310