Nghịch lý tàu sân bay - đắt đỏ nhưng dễ tổn thương

Chi phí đóng mới và vận hành lên đến hàng chục tỷ USD, tuy nhiên, tàu sân bay lại rất dễ bị đánh chìm bởi mối đe dọa từ ngư lôi và tên lửa.

Các đường băng nổi trên biển đã thể hiện sự nghiêm túc của hải quân trong thế kỷ qua. Ban đầu nó được xem là một cách để triển khai lực lượng trên không cho các tàu. Trong Thế chiến II, tàu sân bay và các máy bay của chúng trở thành lực lượng chính để các hạm đội chiến đấu với nhau, Economist cho biết.

Vai trò của tàu sân bay giảm dần sau Thế chiến II, vì Liên Xô không tập trung vào các tàu sân bay. Trung tâm của Chiến tranh Lạnh nằm ở đồng bằng châu Âu và các vùng nội địa thuộc thế giới thứ 3.

Dù thiếu đối thủ cạnh tranh trên biển, Mỹ vẫn khiến các tàu sân bay trở nên hùng mạnh hơn, sử dụng chúng để thiết lập ưu thế trên không ở bất kỳ đâu. Các tàu sân bay của Mỹ đã thực hiện 41% các nhiệm vụ chiến đấu trong Chiến tranh Triều Tiên và hơn một nửa các phi vụ không kích trong Chiến tranh Việt Nam.

Trong 3 tháng đầu tiên của Chiến dịch Tự do Bền vững ở Afghanistan năm 2001, các tiêm kích trên hạm đã thực hiện 3/4 các phi vụ chiến đấu. Hai năm sau, trong cuộc xâm lược Iraq, khi Thổ Nhĩ Kỳ và Saudi Arabia từ chối cho phép Mỹ sử dụng không phận của họ để tấn công Iraq, Mỹ đã triển khai 5 tàu sân bay thực hiện 8.000 phi vụ tấn công trong tháng đầu tiên của cuộc xâm lược.

Khi tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng tràn qua Iraq năm 2014, tàu USS George HW Bush vội vã từ biển Arab đến Vùng Vịnh. Trong hơn một tháng, các cuộc không kích chống lại IS được phát động từ 4 máy phóng của tàu.

Quá nhiều mối đe dọa

Mỹ đang vận hành 11 siêu tàu sân bay, tạo nên lực lượng “có một không hai” trên thế giới. Các siêu hàng không mẫu hạm của Mỹ có thể triển khai tiêm kích, máy bay ném bom, trinh sát, chỉ huy trên không ở bất kỳ đâu mà không cần đồng minh gần đó cho mượn sân bay.

Tàu ngầm, một trong những mối đe dọa lớn và khó phát hiện đối với tàu sân bay và tàu nổi khác. Ảnh minh họa: Hải quân Mỹ.

Tàu ngầm, một trong những mối đe dọa lớn và khó phát hiện đối với tàu sân bay và tàu nổi khác. Ảnh minh họa: Hải quân Mỹ.

Các quốc gia khác có tàu sân bay gồm Anh, Ấn Độ, Trung Quốc, Pháp, Italy, Nga và Tây Ban Nha, nhưng có kích thước nhỏ và ít năng lực hơn. Tuy vậy, số lượng các quốc gia đầu tư vào sân bay đang tăng lên, Anh, Ấn Độ và Trung Quốc đều đã sẵn sàng để đưa vào hoạt động các tàu sân bay mới.

Anh đã giới hạn số lượng 2 tàu sân bay, Ấn Độ mong muốn có 3 tàu, trong khi Trung Quốc tham vọng 6 tàu hoặc nhiều hơn vào năm 2035. Nhật Bản cũng bày tỏ tham vọng sở hữu tàu sân bay. Tháng 12/2018, Tokyo tuyên bố chuyển đổi 2 tàu sân bay trực thăng lớp Izumo để mang theo máy bay phản lực.

Tàu sân bay tuy là một chiến hạm đầy sức mạnh, nhưng bản thân nó lại đối mặt với rất nhiều mối đe dọa, đặc biệt là tàu ngầm. Trong chiến tranh Falklands, Argentina đã để tàu sân bay duy nhất của họ neo tại cảng vì sợ tàu ngầm Anh.

Năm 2006, một tàu ngầm lớp Tống của Trung Quốc đã bí mật tiếp cận tàu sân bay USS Kitty Hawk. Hải quân Mỹ chỉ biết đến khi nó nổi lên cách đó 8 km. Trong bối cảnh chiến tranh, việc tàu ngầm tiếp cận gần tàu sân bay như thế sẽ khó khăn hơn, nhưng tàu ngầm không cần phải đến gần như thế để tấn công tàu sân bay.

Giờ đây, các mối đe dọa với tàu sân bay ngày một tăng lên bởi các tên lửa chống hạm tinh vi phóng từ đất liền, trên không và trên tàu chiến. Những cải tiến về tên lửa cũng đe dọa khả năng của lực lượng không quân trên tàu sân bay trong việc thực hiện sứ mệnh của chúng, gặm nhấm chính lý do tồn tại của chúng.

"Nữ hoàng" của hạm đội Mỹ có nguy cơ đi vào vết xe đổ của thiết giáp hạm, lớn, đắt tiền, dễ bị tổn thương và không liên quan đến các cuộc xung đột hiện tại, Jerry Hendrix, nhà phân tích quốc phòng, nhận xét.

Trong Thế chiến II, thiết giáp hạm được xem là “ông vua của biển cả”, pháo đài di động trên biển với hệ thống hỏa lực cực mạnh. Tuy nhiên, thiết giáp hạm tỏ ra bất lực trước cuộc tấn công từ trên không và tàu sân bay có nguy cơ chung số phận.

Tính hữu dụng giảm dần

Bên cạnh mối đe dọa từ tàu ngầm, tên lửa đạn đạo chống hạm bổ sung vào các mối đe dọa mới đối với tàu sân bay. Trung Quốc đã phát triển tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D có thể tấn công mục tiêu trên biển ở cự ly hơn 1.700 km. Bên cạnh đó, máy bay ném bom tầm trung H-6K của Trung Quốc với phạm vi hoạt động 3.000 km, mang theo tên lửa chống hạm có tầm bắn 400 km.

Trong tháng 7, tướng David Berger, người đứng đầu thủy quân lục chiến Mỹ, đã thừa nhận vũ khí chính xác tầm xa trở thành mối đe dọa lớn đối với các tàu chiến có kích thước lớn. Để đảm bảo an toàn, các tàu sân bay buộc phải hoạt động ở xa bờ biển, tính hữu dụng của tàu sân bay giảm dần sau mỗi hải lý.

Hạm đội tàu sân bay Mỹ buộc phải hoạt động xa bờ để tránh mối đe dọa từ tên lửa Trung Quốc trong một cuộc xung đột nếu có. Ảnh: Hải quân Mỹ.

Theo một nghiên cứu của Trung tâm đánh giá chiến lược và ngân sách (CSBA), một tổ chức tư vấn độc lập về chính sách quốc phòng ở Washington, trong các cuộc chiến tranh tương lai, tàu sân bay Mỹ sẽ phải ở cách xa bờ biển đối thủ có năng lực như Trung Quốc để đảm bảo an toàn.

Mỗi tàu sân bay của Mỹ đều có đội hộ tống hùng hậu có thể đánh chặn tên lửa, máy bay, tàu chiến đối phương từ xa. Tuy vậy, đội hộ tống khó có thể đảm bảo an toàn cho tàu sân bay trước cuộc tấn công áp đảo kiểu bầy đàn với hàng trăm tên lửa.

Economist nhận định điều nghịch lý là khi các mối đe dọa với tàu sân bay ngày càng mở rộng, tầm hoạt động của tiêm kích trên hạm lại ngày một thu hẹp. Những năm Chiến tranh Lạnh, các tiêm kích trên hạm của Mỹ có phạm vi hoạt động trung bình 1.700 km.

Hiện tại, chỉ có tiêm kích trên hạm Rafale của Pháp duy trì được cự ly này. Tiêm kích trên hạm mới nhất của Mỹ là F-35C có phạm vi hoạt động chỉ 1.100 km. Ngay cả khi trang bị tên lửa JASSM, tầm bắn 500 km cho F-35, thì các tàu sân bay Mỹ cũng nằm trong tầm bắn của tên lửa Trung Quốc, trước khi có thể tấn công vào đất liền.

Dù tính khả thi của tên lửa đạn đạo chống hạm vẫn chưa được chứng minh, nhưng người Mỹ sẽ khó lòng mạo hiểm tính mạng của 6.000 thủy thủ và hàng tỷ USD để tiến gần bờ biển Trung Quốc trong một cuộc xung đột.

Sự đầu tư lãng phí?

Liệu các quốc gia chi hàng chục tỷ USD vào hạm đội tàu sân bay có phải là một sai lầm và điều đó có ý nghĩa gì đối với cách Mỹ phát huy sức mạnh và bảo vệ các đồng minh? Người Mỹ thích những tàu sân bay khổng lồ, như xe hơi và dịch vụ nhà hàng của họ.

Mỹ cũng nhấn mạnh rằng những tàu sân bay của họ rất tốt. Điều đó khiến chúng trở nên rất đắt đỏ. Khi được đưa vào vận hành năm 2017, USS Gerald R. Ford, chiếc đầu tiên của siêu tàu sân bay lớp Ford đã trở thành tàu sân bay đắt nhất lịch sử với chi phí với 13 tỷ USD.

USS Gerald R. Ford tàu sân bay đắt nhất lịch sử với đơn giá tới 13 tỷ USD. Ảnh: Hải quân Mỹ.

Số tiền này tương đương với ngân sách quốc phòng Iran hàng năm và đắt gấp đôi so với USS George HW Bush, chiếc cuối cùng của tàu sân bay lớp Nimitz. Chi phí để vận hành các siêu tàu sân bay cũng rất đắt đỏ như số tiền bỏ ra để mua nó.

Chi phí vận hành và bảo dưỡng hàng năm mỗi tàu sân bay lớp Nimitz là 726 triệu USD. Mỗi tàu sân bay có tới 6.000 người, gần gấp đôi so với số người phục vụ trong hải quân Đan Mạch. Mỗi tàu sân bay phải tốn thêm 3-5 tỷ USD để mua sắm các máy bay và 1,8 tỷ USD mỗi năm để hoạt động.

Các nước có tàu sân bay nhỏ hơn cũng phải chi ra số tiền không nhỏ chút nào. Tàu sân bay lớp HMS Queen Elizabeth của Anh, lượng choán nước 65.000 tấn cũng tốn tới 6,2 tỷ USD để đóng mới. Tàu thứ 2 HMS Prince of Wales chưa đưa vào hoạt động được cho là có chi phí rẻ hơn 6 tỷ USD.

Tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc được cải tạo lại từ tàu sân bay Varyag chưa hoàn thành của Liên Xô, mua lại từ Ukraine với chi phí 20 triệu USD, cộng thêm 100 triệu USD để chuyển nó sang Trung Quốc. Bắc Kinh đã cải tạo tàu và đưa vào sử dụng với tên gọi Liêu Ninh. Chi phí cải tạo không được công bố.

Tuy nhiên, ngay cả những tàu sân bay có kích thước khiêm tốn, nó cũng chiếm một phần lớn trong ngân sách quốc phòng của quốc gia sở hữu nó. Chi phí cho tàu sân bay lớp Ford đầu tiên chiếm 2% ngân sách quốc phòng của Mỹ.

HMS Queen Elizabeth chiếm 15% ngân sách quốc phòng Anh. Tướng David Richards, cựu tham mưu trưởng quân đội Anh từ năm 2010-2013, đã thúc giục chính phủ hủy bỏ tàu sân bay thứ 2, vì với số tiền đó có thể mua sắm 5 tàu khu trục.

Dù còn nhiều tranh cãi về vai trò cũng như cách giải quyết các mối đe dọa mà nó đang đối mặt. Tàu sân bay được xem là biểu tượng cho sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự của mỗi quốc gia. Nó cho phép quốc gia sở hữu phô trương sức mạnh quân sự và tăng tính răn đe. Chẳng hạn, siêu tàu sân bay Mỹ luôn có mặt ở những điểm nóng trên thế giới để trấn an đồng minh, răn đe các nước trong khu vực về những toan tính của họ.

Trung Hiếu

Nguồn Znews: https://news.zing.vn/nghich-ly-tau-san-bay-dat-do-nhung-de-ton-thuong-post1013977.html