Nghề làm giấy bản hồi sinh

Cùng với việc giữ gìn những làn điệu dân ca, dân vũ, hát then, đàn tính, bà con các dân tộc sống trên rẻo cao còn kiên trì lưu giữ những nghề truyền thống. Trong số này, có nghề làm giấy bản ở Cao Bằng được bà con người Tày, người Nùng gìn giữ, phát triển.

Giấy bản được bán ở chợ vùng cao. Ảnh: Thúy Lê

Nếu có dịp đến xã Quốc Dân, huyện Quảng Uyên (tỉnh Cao Bằng), người ta sẽ được chứng kiến nghề làm giấy bản của người Nùng ở đây khá phát triển. Ở hai xóm Lũng Ỏ và Dìa Trên có tới hơn 70% số hộ dân làm nghề này. Ở đây, nghề làm giấy bản chủ yếu do phụ nữ thực hiện, có thể bởi nghề này đòi hỏi sự cần cù, tỉ mỉ, cũng có thể do tranh thủ lúc nông nhàn, công việc cũng không quá nặng nhọc, phù hợp với phụ nữ.

Còn khi đến với xóm Lũng Quang (thị trấn Thông Nông, huyện Thông Nông, Cao Bằng), có thể dễ dàng nhận ra nghề làm giấy bản vẫn được duy trì và vượt qua những khó khăn để tồn tại. Theo chia sẻ của bà con người Tày nơi đây thì lý do nghề làm giấy bản tồn tại là địa phương thiếu nước, ít ruộng nên canh tác nông nghiệp khó khăn hơn so với nơi khác. Bà con cũng cho biết, trước đây, nghề làm giấy bản đã đứng trước nguy cơ thất truyền, nhưng bằng sự chung tay góp sức của nhiều người, đến nay, nghề làm giấy bản đã hồi sinh.

Một trong những bước ngoặt có tính đột phá, đó là vào năm 2012 – 2013, nhận thấy nguy cơ mai một nghề truyền thống làm giấy bản ở Lũng Quang, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Cao Bằng đã đầu tư hỗ trợ 70 triệu đồng cho các hộ nghèo, trong đó, mỗi hộ được 10 triệu đồng xây lò dán khô, bể múc làm giấy để bảo tồn và phát triển nghề làm giấy bản. Cùng với đó, sự cố gắng, kiên trì “giữ lửa” của bà con cũng là động lực để nghề giấy bản Lũng Quang từng bước vươn lên, mang lại cuộc sống ấm no cho người dân nơi đây.

Bà Sầm Thị Ý, người có hơn 20 năm làm giấy bản ở Lũng Quang cho biết, trước đây, giấy bản làm ra không được nhiều người mua nên gia đình bà không làm. Cuộc sống gia đình chỉ dựa vào ruộng nương nên rất khó khăn. Từ ngày được hỗ trợ làm bể và xây lò dán giấy, gia đình bà tiếp tục làm nghề giấy bản, cuộc sống bớt khó khăn hơn, bà nuôi được 2 con ăn học.

Đối với bà con vùng cao, giấy bản được dùng chủ yếu trong đời sống tâm linh, thường được dùng nhiều vào dịp cúng lễ, nhất là dịp Tết hằng năm. Xưa kia, các gia đình, dòng họ trong vùng đều dùng giấy bản để ghi chép lưu giữ các tài liệu như thơ ca, truyện cổ dân gian, gia phả dòng họ... Giấy bản có màu vàng nhạt, dai, thoang thoảng mùi thơm. Ngoài dùng để cắt giấy tiền, vàng mã, giấy bản còn dùng để dán bàn thờ, trang trí trong nhà, dùng để viết chữ Nho, chữ Hán, bởi giấy dai và thấm mực, chữ viết không bị phai màu.

Giấy bản của người Nùng ở xóm Dìa Trên được bà con trong vùng ưa chuộng, bởi đặc tính xốp, nhẹ, bền dai, không nhòe khi viết, vẽ, ít bị mối mọt, hoặc giòn gẫy, ẩm nát.

Ngày nay, nhiều người đã chọn giấy bản để gói bọc các loại bánh, xôi, bỏng ngô, thóc... hoặc lau chùi đồ đạc... Ngoài đặc tính dai xốp, sản phẩm này cũng đảm bảo sự sạch sẽ bởi được làm hoàn toàn từ các thành phần tự nhiên, không dùng hóa chất hay thuốc tẩy rửa độc hại, ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường.

Giống như cách người Nùng ở xóm Dìa Trên, người Tày ở xóm Lũng Quang cũng dùng nguyên liệu chính để làm giấy bản là cây vỏ dưỡng (tiếng Tày là mạy sla), mọc tự nhiên trên đồi, núi cao. Vào tháng 2, 3, 6, 7, bà con thường đi bóc vỏ vì thời điểm này, cây dễ bóc vỏ nhất. Sau đó, bà con tước bỏ phần vỏ đen rồi đem ngâm trong nước vôi trong khoảng 12 giờ. Sau khi ngâm trong nước vôi, phần vỏ này được rửa qua nước rồi đun lên khoảng 3 giờ, sau đó ngâm nước sạch khoảng 2 ngày.

Tiếp đó, thanh niên trẻ, khỏe dùng gậy đập cho thật nát rồi đem xuống bể khuấy đều sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh. Trong quá trình khuấy, đem trộn cùng bã giã từ cây dây trơn lấy trên rừng nhằm làm cho giấy khi vào khuôn không bị dính. Giấy vừa lấy ở khuôn ra được ép nước và rải lên 2 mặt lò nóng vừa nhiệt độ khoảng gần 1 giờ sau, giấy sẽ khô. Cuối cùng sẽ được một sản phẩm giấy bản có màu vàng nhạt, có độ mỏng vừa phải và dai. Trung bình một mẻ giấy bản dùng chừng 30 - 40kg nguyên liệu, làm ra được từ 400 - 500 tờ.

Với cách làm thủ công truyền thống, giấy bản của người Tày, Nùng để được rất lâu; nếu bảo quản tốt, nó có thể tồn tại vài chục năm. Vì vậy, đồng bào dân tộc thiểu số rất ưa thích. Giấy bản còn dùng trong các nghi lễ truyền thống của dân tộc. Do đó, nó còn mang giá trị tôn nghiêm trong các phong tục văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc.

Một điều đáng mừng là đến nay, giấy bản do bà con dân tộc Tày, Nùng làm ra không chỉ phục vụ nhu cầu trong tỉnh Cao Bằng mà còn được một số địa phương khác sử dụng thông qua các thương lái làm trung gian. Bên cạnh đó, từ khi tỉnh Cao Bằng triển khai Dự án “Tăng cường sinh kế cho người dân tộc thiểu số thông qua du lịch cộng đồng tại tỉnh Cao Bằng” đã khiến nhiều du khách biết tới giấy bản và đến tham quan, trải nghiệm những cơ sở làm giấy bản.

Những sản phẩm của bà con giờ không chỉ bán ở chợ phiên vùng cao, mà còn theo chân du khách tới nhiều thành phố, thậm chí nhiều quốc gia trên thế giới. Điều này chẳng những tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân, mà còn tạo điều kiện cho bà con giao lưu, trao đổi với thế giới bên ngoài, để thấy rõ giá trị của nghề truyền thống cần được giữ gìn, phát triển.

Thúy Lê

Nguồn Biên Phòng: http://bienphong.com.vn/nghe-lam-giay-ban-hoi-sinh/