Ngành ngân hàng Việt Nam: Vốn ít, tín dụng nhiều

Tăng trưởng tín dụng trong nước đang trở lại. Liệu Việt Nam có thể đưa ra những công cụ tốt hơn để xử lý nợ xấu?

Tờ Finance Asia đã đưa ra bài viết về ngành ngân hàng tại Việt Nam. Dù không đạt được kế hoạch đề ra năm 2016 nhưng Việt Nam đang trên đà đạt mục tiêu 2017, với GDP quý III đạt 7,5%. Tuy nhiên, giới quan sát lo ngại rằng dường như Chính phủ đang cố gắng theo đuổi tăng trưởng bằng cách đẩy nhanh tín dụng đến mức quá cao.

Đọc thêm: Thống đốc NHNN: Không yêu cầu các ngân hàng tăng trưởng tín dụng bằng mọi giá

Trong 10 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đạt 13,5% - không cao so với mức trung bình trong quá khứ. Tuy nhiên mục tiêu của năm nay được Chính phủ đưa ra là 21% (cao hơn so với con số 18% đưa ra từ đầu năm).

"Chính phủ đang giữ vững tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, do quá phụ thuộc vào con số 6,7% nên quá trình đang bị đẩy nhanh", ông Kevin Snowball, CEO quỹ đầu tư PXP nhận định. Ông sợ rằng nếu tín dụng vẫn tiếp tục tăng trưởng quá mức, nền kinh tế sẽ trở về thời kỳ đi xuống trong thập niên đầu thế kỷ này.

"Tình trạng này không tốt cho sự ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước trong dài hạn", ông Snowball khẳng định. Theo nhà quản lý quỹ, một mốc tăng trưởng thấp hơn là hợp lý, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng toàn cầu cũng đang yếu đi.

Ông Dominic Scriven, chủ tịch kiêm nhà sáng lập quỹ Dragon Capital, cũng đồng tình với quan điểm này. "Mức tăng trưởng tín dụng hiện nay vẫn ổn", ông Scriven nói. Tuy nhiên ông sẽ bắt đầu lo lắng cho nền kinh tế nếu con số leo lên mức 20%, đặc biệt ở các ngành như xây dựng hay tài chính tiêu dùng.

Chủ tịch Dragon Capital tin rằng tăng trưởng GDP hiện đã vượt quá 6,7% vì Chính phủ có thể chưa thống kê chính xác tăng trưởng của khu vực tư nhân, một trong những khu vực năng động nhất của ngành kinh tế.

"Mức tăng trưởng tín dụng hiện nay không quá vô lý so với mức phát triển kinh tế của Việt Nam", Marshall Stocker, phó chủ tịch quỹ Eaton Vance, khẳng định. Tuy nhiên, ông lưu ý rằng từ trước đến nay, Việt Nam chưa làm tốt trong việc xử lý hậu quả của tăng trưởng nợ quá mức.

Thiếu vốn

Thực ra, duy trì mức tăng trưởng tín dụng cao sẽ không phải là vấn đề nếu ngành ngân hàng có tỷ lệ vốn mạnh. Tuy nhiên, đây không phải là kịch bản của Việt Nam.

Chính phủ liên tục hoãn việc áp dụng Basel II và nhiều nhà quan sát tin rằng kế hoạch 2020 cũng sẽ bị lùi lại. Công ty chứng khoán Bản Việt (VietCapital) ước tính hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo Basel I là 12,8% trong khi tỷ lệ nợ/GDP đã là 124%. Công ty này cũng tính rằng mức yêu cầu tái cấp vốn cho ngân hàng khi phải bán tháo tài sản vào khoảng 30 - 40 tỷ USD, tương ứng 15 - 20% GDP nợ tiềm tàng.

Tỷ lệ nợ xấu (NPL) chính xác của ngành ngân hàng khó được xác định. Để đối mặt với cuộc khủng hoàng tài chính toàn cầu và thời kỳ kinh tế Việt Nam suy thoái năm 2007, các ngân hàng lâm vào tình trạng cho vay quá độ đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém. Chính điều này đã dẫn đến khủng hoảng năm 2012.

Sau cuộc khủng hoảng trước, Chính phủ thành lập công ty Quản lý tài sản VAMC để giải quyết các khoản nợ xấu của ngân hàng. Tuy phần nào xoa dịu được vấn đề nhưng VAMC có khá ít vốn (2.000 tỷ đồng). Công ty này lên kế hoạch tăng vốn lên 5.000 tỷ vào năm 2018 và 10.000 tỷ vào năm 2020.

Mặc dù vậy, đây chỉ có thể coi là một cơ chế kế toán cho các ngân hàng tốt còn những ngân hàng khác vẫn phải chịu rủi ro thiệt hại.

"Thị trường vốn cổ phần mà nợ vẫn còn kém phát triển và mức bảo hiểm tiền gửi còn rất nhỏ so với lượng tiền tiết kiệm gửi ngân hàng", Natasha Ansell, giám đốc quốc gia của ngân hàng Citi, cho biết.

Cho phép áp dụng phá sản ngân hàng thuộc diện kiểm soát đặc biệt từ 15/01/2018

Chính phủ làm thế nào để giải quyết vấn đề?

Việt Nam có 7 ngân hàng có vốn nhà nước (bao gồm 3 ngân hàng mua 0 đồng, Vietcombank, BIDV, Vietinbank, Agribank). Trong những năm gần đây, nhà nước luôn kêu gọi các ngân hàng tìm đối tác chiến lược. Tuy nhiên, việc này gặp phải khá nhiều trở ngại, bao gồm chính sự do dự của Chính phủ trong việc "tự do hóa" ngân hàng, quan điểm khác nhau trong định giá và số lượng nhà đầu tư giảm, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài.

"BIDV vẫn đang tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược trong nhiều năm nay", một lãnh đạo ngân hàng chia sẻ. Tuy nhiên, vị này cho biết Việt Nam đang ngày càng thiếu những cái tên ngân hàng Nhật tiềm năng.

Ví dụ, ngân hàng Tokyo - Mitsubishi có 19,73% cổ phần trong Vietinbank, Mizuho có 15% cổ phần trong Vietcombank và Sumitomo - Mitsui giữ 15% EximBank. Standard Charter có 15% cổ phần trong ngân hàng thương mại cổ phần Á châu (ACB). Đầu mùa hè, HSBC bán 20% cổ phần trong Techcombank.

Ngân hàng ngoại càng do dự trong bối cảnh ngành ngân hàng toàn cầu đang thay đổi và fintech (công nghệ tài chính) đang trỗi dậy. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cũng khiến những nhà đầu tư nước ngoài nhận ra rằng cổ phần thiểu số trong một ngân hàng Việt và quá trình chuyển giao công nghệ sau đó sẽ chỉ tạo ra những đối thủ trong nước đáng gờm.

"Các ngân hàng quốc tế không chú ý vào đầu tư thiểu số trong ngân hàng Việt vì ảnh hưởng của Basel III", Rehan Anwer, giám đốc điều hành phụ trách thị trường sơ khởi của Credit Suisse bình luận. Trong khi đó, các quỹ đầu tư cổ phần và quỹ quốc gia lại ngày càng quan tâm lĩnh vực này, ông cho hay.

Mặc dù vậy, những rắc rối trong đề xuất đầu tư chiến lược vào Vietcombank của quỹ đầu tư quốc gia Singapore GIC càng nhấn mạnh lỗ hổng này. Cổ đông chấp thuận việc bán 7,7% cổ phần ở mức giá chiết khấu 30% mùa hè năm 2016. NHNN từ chối đề nghị này với lý do giá như vậy quá rẻ. Thỏa thuận này hiện vẫn ở trong tình trạng "chờ giải quyết".

Bà Ansell đến từ Citi khẳng định Chính phủ hiểu rõ ngành ngân hàng cần phải được củng cố và hợp nhất. Ngoài 7 ngân hàng nhà nước, Việt Nam có 31 ngân hàng cổ phần và 2 ngân hàng liên doanh.

"Cho đến nay, không phải tất cả các ngân hàng đều có một chiến lược đáng tin để cạnh tranh trong một môi trường bình thường, chứ chưa nói đến môi trường số đang rất phát triển", bà Ansell nhận xét. Bà cho biết Chính phủ đang cố gắng tìm ra một quy trình để giải quyết vấn đề này mà không tác động tiêu cực đến nền kinh tế.

Barry Weisblatt, giám đốc nghiên cứu của VietCapital chỉ ra rằng một số ngân hàng yếu kém vẫn đang tăng mức nợ 15 -20% một năm. "Ngành ngân hàng là lo ngại kinh tế vĩ mô chính của tôi. Chúng ta sẽ vẫn ổn trong năm sau và có thể năm sau nữa, nhưng tôi lo lắng về sau này", ông nói.

Chính phủ cần đưa ra một cơ chế tốt hơn để giải quyết NPL. Việt Nam đang nhờ các chuyên gia quốc tế tư vấn cách thức cho phép VAMC bán những tài sản yếu kém với giá chiết khấu, bà Ansell nói.

"Cả nhà đầu tư trong và ngoài nước đều quan tâm nhưng các ngân hàng cần nhận ra giá trị chứng khoán, bao gồm quyền sở hữu tài sản thế chấp và khả năng bán lại", bà kết luận.

Trang Hồ/ Theo Financial Asia

Nguồn NDH: http://ndh.vn/nganh-ngan-hang-viet-nam-von-it-tin-dung-nhieu-20171121100335673p149c165.news