Nâng cao vai trò của Ủy ban Kiểm tra Trung ương trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng

TCCS - Thời gian qua, ủy ban kiểm tra cấp ủy các cấp, trong đó nổi bật là Ủy ban Kiểm tra Trung ương, có vị trí, vai trò quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Thời gian tới, để đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiệu quả, đòi hỏi trách nhiệm, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân một cách thường xuyên, liên tục. Với chức trách, nhiệm vụ của mình, cùng với sự tin tưởng của Đảng, ủy ban kiểm tra các cấp tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã có kết luận về nhiều vụ việc, xử lý nhiều cán bộ, trong đó có những cán bộ cấp cao - Nguồn: vietnamplus.vn

Là cơ quan kiểm tra, giám sát (KTGS) chuyên trách của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Điều lệ Đảng; tham mưu, giúp Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ KTGS và thi hành kỷ luật trong Đảng, theo đó, vai trò của Ủy ban Kiểm tra Trung ương (UBKTTW) trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) chủ yếu thông qua việc thực hiện công tác KTGS tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, công tác giải quyết đơn, thư tố cáo và kiểm tra tài chính đảng.

Việc phát hiện vi phạm về tham nhũng phải tuân thủ theo các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong đó có Quy định số 1319-QĐ/UBKTTW, ngày 10-6-2013 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, về phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Nguồn tin về tham nhũng do UBKTTW chủ động phát hiện chủ yếu thông qua công tác giám sát, qua thực hiện quy chế phối hợp giữa UBKTTW với các ban đảng và cơ quan khối nội chính trung ương, với cơ quan thanh tra, kiểm toán và quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước như tài chính, thuế, ngân hàng; với các báo, đài; qua kiểm tra đảng viên, kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và qua kiểm tra tài chính đảng. Ngoài ra, vi phạm về tham nhũng còn được phát hiện qua giải quyết đơn, thư phản ánh, tố cáo của đảng viên và công dân.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương phát hiện dấu hiệu vi phạm thông qua nhiều kênh khác nhau, song không phải cứ có “thông tin” về “dấu hiệu vi phạm” là tiến hành kiểm tra, mà phải xử lý theo quy trình để bảo đảm tuyệt đối không có sự áp đặt trong việc xác định, quyết định để kiểm tra tổ chức đảng hoặc đảng viên. Quyết định kiểm tra “khi có dấu hiệu vi phạm” là vấn đề khó và rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải có năng lực, trình độ, kinh nghiệm trong quá trình xử lý thông tin, vì thông tin về dấu hiệu vi phạm chỉ là hiện tượng biểu hiện bên ngoài, nhiều khi không phản ánh bản chất của sự việc. Do đó, xử lý các “dấu hiệu vi phạm” để quyết định kiểm tra phải do tập thể Thường trực hoặc tập thể UBKTTW bàn bạc, quyết định.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương có chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác KTGS hằng năm, trong đó có việc PCTN theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo phân công, giao nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Tập trung trước hết là việc thực hiện giám sát các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Phân công cán bộ theo dõi địa bàn, lĩnh vực thực hiện giám sát thường xuyên nắm chắc tình hình, đánh giá đúng hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong đó chú trọng đến những nội dung gợi ý kiểm điểm đối với đảng viên và tổ chức đảng cuối năm; việc tự phê bình và phê bình của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, tập thể lãnh đạo tổ chức đảng; xác định đối tượng, nội dung để xây dựng kế hoạch kiểm tra, nhằm ngăn chặn vi phạm từ khi mới manh nha. Đồng thời, qua giám sát góp phần tham mưu bổ sung, sửa đổi các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho phù hợp với thực tiễn, đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện góp phần ngăn ngừa xảy ra vi phạm trong đó có vi phạm về tham nhũng. Tăng cường phối hợp các tổ chức đảng có liên quan trong công tác KTGS đối với các vụ, việc tham nhũng phức tạp, nghiêm trọng. Khi cần thiết, có thể thành lập các đoàn công tác liên ngành giữa ủy ban kiểm tra của Đảng với thanh tra, kiểm toán, công an, kiểm sát để phối hợp xử lý các vụ tham nhũng nghiêm trọng và công khai kết quả xử lý của các đoàn công tác này.

Về công tác giải quyết tố cáo, UBKTTW giải quyết theo Quy định về giải quyết tố cáo tổ chức đảng và đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; thực hiện việc phối hợp với các cơ quan chức năng trong giải quyết tố cáo để làm rõ đúng, sai, giúp cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng có khuyết điểm, vi phạm nghiêm túc rút ra bài học kinh nghiệm, có biện pháp sửa chữa, khắc phục; giúp các tổ chức đảng phát hiện, chấn chỉnh một số bất cập trong lãnh đạo, chỉ đạo, phục vụ kịp thời cho công tác cán bộ, kiện toàn, bổ sung nhân sự cấp ủy các cấp và lãnh đạo các tổ chức, cơ quan, đơn vị. Việc xử lý đơn, thư tố cáo giấu tên, mạo tên được coi là một kênh thông tin quan trọng, giúp cho việc phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm để tiến hành kiểm tra. Các trường hợp kết luận có vi phạm liên quan đến tham nhũng phải xem xét, thi hành kỷ luật theo đúng quy định.

Kiểm tra tài chính của Đảng là một trong những điều kiện quan trọng để việc quản lý, sử dụng đúng quy định, phát huy được tác dụng, hiệu quả. Ủy ban Kiểm tra Trung ương coi trọng nhiệm vụ kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp nhằm ngăn ngừa và khắc phục kịp thời những khuyết điểm, vi phạm, tham nhũng trong chấp hành nghị quyết, chỉ thị, nguyên tắc, chế độ tài chính, kế toán. Qua kiểm tra tài chính của Đảng còn tìm hiểu những khiếm khuyết trong những nghị quyết, chỉ thị, các quy định của Đảng, Nhà nước về tài chính; từ đó tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư sửa đổi, bổ sung để thực hiện tốt công tác tài chính của Đảng.

Nhìn một cách tổng thể, quá trình thực hiện nhiệm vụ KTGS của UBKTTW, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết Trung ương 5 khóa X, về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đến nay cho thấy, UBKTTW đã tích cực tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành hệ thống văn bản tương đối hoàn chỉnh, cụ thể hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng về công KTGS, kỷ luật đảng. Đã tăng cường một bước công tác KTGS, thi hành kỷ luật đảng; đồng thời trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ và hướng dẫn hệ thống cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện nhiệm vụ. Công tác KTGS và kỷ luật của Đảng đã được UBKTTW thực hiện tương đối toàn diện các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định; tính chất, mức độ kiểm tra sâu sát hơn, quyết liệt hơn ở nhiều cấp, nhiều ngành. Công tác giám sát có nhiều chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng. Tập trung vào việc chủ động phòng ngừa không để xảy ra khuyết điểm vi phạm, đồng thời chủ động phát hiện và kiểm tra dấu hiệu vi phạm.

Nhiệm kỳ Đại hội XI, thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng, UBKTTW kiểm tra 13 tổ chức và 33 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm (giảm 76% tổ chức và 74% đảng viên so với nhiệm kỳ Đại hội X). Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên đều có khuyết điểm, vi phạm; trong đó có vi phạm phải đề nghị thi hành kỷ luật 3 tổ chức bằng hình thức khiển trách; thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 7, cảnh cáo 6). Giám sát chuyên đề đối với 119 tổ chức đảng; 64 đảng viên (tăng 65% số tổ chức và 300% số đảng viên so với nhiệm kỳ Đại hội X). Nội dung giám sát chuyên đề đối với tổ chức đảng tập trung chủ yếu là việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận của cấp ủy cấp trên và cấp mình. Nội dung giám sát chuyên đề đối với đảng viên tập trung vào việc: giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; thực hiện những điều đảng viên, cán bộ, công chức không được làm; chấp hành quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng...

Đã thi hành kỷ luật 27 đảng viên (giảm 39% so với nhiệm kỳ Đại hội X), bằng các hình thức: khiển trách 14; cảnh cáo 12, cách chức 1 trường hợp. Nội dung vi phạm chủ yếu là: những điều đảng viên không được làm; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý; vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống; vi phạm về đất đai, tài nguyên, khoáng sản; tham nhũng, cố ý làm trái... Giải quyết tố cáo 5 tổ chức và 61 đảng viên là cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (giảm 37% tổ chức và 73% đảng viên so với nhiệm kỳ Đại hội X); đã kết luận 4 tổ chức, trong đó, chưa có cơ sở kết luận 1; tố đúng và đúng một phần có vi phạm nhưng chưa đến mức phải xem xét, xử lý kỷ luật 3 tổ chức đảng. Đã kết luận 59 đảng viên, trong đó: chưa có cơ sở kết luận 9, tố sai 25, tố đúng và đúng một phần 25 (đúng có vi phạm 6, phải thi hành kỷ luật 2 trường hợp).

Về kiểm tra tài chính đảng, đã kiểm tra 23 tổ chức đảng (tăng 53% so với nhiệm kỳ Đại hội X). Qua kiểm tra, đã kết luận sai phạm và yêu cầu ban thường vụ cấp ủy chỉ đạo xử lý trên 200 tỷ đồng; thu hồi vào ngân sách trên 76 tỷ đồng, điều chỉnh, hạch toán lại sổ sách kế toán trên 987 tỷ đồng.

Bước sang nhiệm kỳ Đại hội XII, năm 2016, UBKTTW đã kiểm tra 9 tổ chức và 20 đảng viên (có 3 tổ chức đảng trực thuộc Trung ương, 12 đảng viên là cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý); sau kiểm tra, đã kịp thời xem xét, kỷ luật và đề nghị Ban Bí thư xem xét, kỷ luật các tập thể, cá nhân có vi phạm. Đồng thời, đã kiểm tra chuyên đề công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng trong lĩnh vực thuế, hải quan; tham gia các đoàn kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ, việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm tại 14 tỉnh, thành phố. Về kiểm tra tài chính đảng, kiểm tra 6 tổ chức đảng, kiến nghị thu hồi cho ngân sách gần 112 tỷ đồng, nộp ngân sách đảng trên 7 tỷ đồng; giao các đơn vị xem xét, xử lý trên 84 tỷ đồng; yêu cầu điều chỉnh hạch toán chưa đúng trên 175 tỷ đồng.

Thi hành kỷ luật 9 đảng viên (có 8 đảng viên là cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý); ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị thi hành kỷ luật 2.818 đảng viên. Đã giải quyết tố cáo đối với 2 tổ chức đảng và 9 đảng viên; ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị giải quyết tố cáo 53 tổ chức đảng và 2.125 đảng viên. Chủ động giám sát việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương ở các địa phương, đơn vị; qua đó, kịp thời báo cáo, cung cấp thông tin phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Giám sát 27 tổ chức đảng và 45 đảng viên diện Trung ương quản lý.

Năm 2017, UBKTTW kiểm tra 12 tổ chức và 16 đảng viên, trong đó có 3 đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng nhiệm kỳ Đại hội XI, Đại hội XII. Qua kiểm tra đã thi hành kỷ luật theo thẩm quyền đối với 18 đảng viên; đề nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 3 tổ chức đảng bằng hình thức cảnh cáo và 10 đảng viên từ cảnh cáo đến cách chức; đề nghị tổ chức đảng cấp dưới thi hành kỷ luật 2 tổ chức đảng. Các cuộc kiểm tra được chỉ đạo và thực hiện nghiêm túc, khoa học, chặt chẽ, có hiệu quả, xử lý nghiêm minh, được cán bộ, đảng viên ghi nhận và nhân dân đồng tình, đánh giá cao.

Đáng chú ý là, đã kiểm tra Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng, nhiệm kỳ 2015 - 2020 và đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, đồng chí Phó Bí thư Thành ủy, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng; với Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam; Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn Hóa chất Việt Nam; Ban cán sự đảng UBND tỉnh Quảng Nam, Hà Tĩnh, Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường; Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc; cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ... và các cán bộ, đảng viên có liên quan. Qua đó, UBKTTW đã thi hành kỷ luật và đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật nghiêm minh, đồng thời chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới làm rõ và xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan và kiến nghị thu hồi cho ngân sách nhà nước hàng nghìn tỷ đồng.

Về kiểm tra tài chính đảng, UBKTTW đã kiểm tra 7 tổ chức đảng; kiến nghị thu hồi cho ngân sách hơn 960 triệu đồng, thu hồi công nợ tạm ứng trên 14 tỷ đồng; giao cho các đơn vị xem xét, xử lý trên 9 tỷ đồng, điều chỉnh hạch toán chưa đúng trên 1,5 tỷ đồng; đồng thời quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với 1 đảng viên nguyên là Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Nông. Thi hành kỷ luật 26 đảng viên; giải quyết tố cáo 1 tổ chức đảng và 5 đảng viên, đã kết luận đối với 1 tổ chức và 4 đảng viên.

Đã ban hành quy chế công tác đối với cán bộ theo dõi địa bàn, lĩnh vực; phân công nhiệm vụ giám sát thường xuyên cho từng thành viên Ủy ban, cán bộ kiểm tra và gắn trách nhiệm của cán bộ địa bàn, lĩnh vực đối với địa phương, đơn vị được phân công theo dõi; qua đó đã nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, kịp thời báo cáo với Ủy ban chỉ đạo, giải quyết các vấn đề phức tạp phát sinh, góp phần ổn định tình hình, phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị.

Giám sát 30 tổ chức đảng và 40 đảng viên, trong đó có 01 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, 01 đồng chí Bí thư Trung ương Đảng, 12 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng; ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị giám sát 16.074 tổ chức đảng và 38.745 đảng viên. Nội dung giám sát chủ yếu là việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ; trong đó, tập trung giám sát việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác tổ chức cán bộ và việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; việc kê khai tài sản theo quy định của Bộ Chính trị.

Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị tổng kết năm 2016 “làm việc gì ra việc đó, đến đâu xử lý đến đó, xử lý không có “vùng cấm”; “công tác kiểm tra phải chủ động đi trước”, thể hiện quyết tâm của Đảng trong công tác PCTN, tiêu cực; UBKTTW đã tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; đã lựa chọn đúng đối tượng, có trọng tâm, trọng điểm đi vào những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm, lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh vi phạm, được dư luận quan tâm, đồng thời tổ chức triển khai quyết liệt để trong thời gian ngắn kết luận rõ vi phạm, tạo sự ổn định địa phương, đơn vị.

Với tinh thần quyết tâm, bản lĩnh, không ngại va chạm, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ, UBKTTW đã kiểm tra, kết luận, làm rõ nhiều vụ, việc, quyết định thi hành kỷ luật và đề nghị thi hành kỷ luật nghiêm minh, chính xác, kịp thời nhiều tổ chức đảng, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ cương vị cao của Đảng, Nhà nước.

Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm tạo bước đột phá trong thực hiện nhiệm vụ này. Hầu hết các cuộc kiểm tra đã xác định đúng nội dung, đối tượng, việc xử lý và đề nghị xử lý vi phạm thể hiện quyết tâm cao trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Giám sát chuyên đề được chú trọng, việc giải quyết tố cáo, khiếu nại kịp thời; công tác kiểm tra tài chính đảng góp phần phát hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời các vi phạm, đề nghị thu hồi tiền vi phạm cho ngân sách nhà nước. Việc thi hành kỷ luật cơ bản bảo đảm chặt chẽ, đúng quy trình, quy định, dân chủ, khách quan.

Công tác KTGS của Đảng thực hiện với tinh thần “trị bệnh cứu người”, trách nhiệm, tính đảng cao, làm rõ bản chất sự việc để kết luận. Kiểm tra, giám sát đã làm rõ được những kết quả, ưu điểm để phát huy, đồng thời hạn chế, khắc phục hậu quả và xử lý nghiêm minh vi phạm. Kết quả hoạt động đã đóng góp tích cực vào công tác đấu tranh PCTN, đã kiểm tra, xử lý kịp thời những đảng viên có dấu hiệu suy thoái, tham nhũng, có hình thức xử lý nghiêm minh đối với các tổ chức đảng, đảng viên không chấp hành nghiêm túc các quy định của Đảng, Nhà nước về PCTN. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã phối hợp chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn với các tổ chức đảng, cơ quan có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ KTGS. Công tác KTGS của Đảng đã chủ động đi trước, kỷ luật Đảng phải xử lý nghiêm minh, kịp thời hơn kỷ luật hành chính.

Tuy nhiên, việc tham gia đấu tranh PCTN của UBKTTW còn những hạn chế, bất cập, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Việc phát hiện dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên về tham nhũng, nhất là những vi phạm trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính, ngân hàng và một số lĩnh vực đặc thù như y tế, quốc phòng, an ninh, tư pháp còn ít.

Để nâng cao vai trò của UBKTTW trong lĩnh vực PCTN, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 01-QĐ/TW, ngày 10-5-2018, quy định trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong công tác phòng, chống tham nhũng.

Quy định gồm 4 chương, 8 điều quy định về phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc thực hiện, trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra về phòng ngừa tham nhũng; phát hiện vi phạm về tham nhũng; kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và giải quyết tố cáo và xử lý hành vi tham nhũng; trách nhiệm của cấp ủy đảng và ủy ban kiểm tra trong tổ chức thực hiện. Theo đó, tăng thêm một số thẩm quyền và trách nhiệm cho ủy ban kiểm tra, mà thực hiện nghiêm sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCTN.

Thứ nhất, quá trình kiểm tra được niêm phong tài liệu liên quan đến vi phạm.

Đây là biện pháp quan trọng để tránh việc đảng viên thay đổi, hủy bỏ chứng cứ, tài liệu vi phạm; với các cơ quan thanh tra, kiểm toán thì việc này được quy định khá chặt chẽ trong Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thứ hai, quá trình kiểm tra, được yêu cầu đảng viên đến cơ quan ủy ban kiểm tra giải trình làm rõ các vấn đề liên quan.

Việc mời đối tượng kiểm tra về cơ quan ủy ban kiểm tra để giải trình giúp đảng viên tập trung giải trình theo gợi ý của đoàn kiểm tra và hạn chế việc đảng viên tác động, hợp lý hóa các vi phạm và không ảnh hưởng đến quyền của đảng viên. Biện pháp này được thực hiện công khai, dân chủ nhằm hỗ trợ cho việc thẩm tra, xác minh của ủy ban kiểm tra.

Thứ ba, được yêu cầu đảng viên giữ nguyên hiện trạng tài sản; khi cần thiết, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản và các biện pháp khác theo quy định của pháp luật đối với đảng viên có dấu hiệu tham nhũng hoặc có biểu hiện che giấu, tẩu tán tài sản.

Thực tế, nhiều vụ án tham nhũng mới dừng lại ở việc xử lý về con người, việc thu hồi tài sản tham nhũng còn rất hạn chế do đối tượng tham nhũng thường tẩu tán, hợp pháp hóa tài sản từ trước, quy định này góp phần ngăn ngừa hiện tượng đó.

Thứ tư, được yêu cầu đảng viên không được xuất cảnh; khi cần thiết đề nghị các cơ quan có thẩm quyền tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật đối với đảng viên có dấu hiệu tham nhũng hoặc có biểu hiện bỏ trốn.

Trong một số vụ, việc gần đây, đã có đảng viên có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng tẩu tán tài sản, bỏ trốn ra nước ngoài gây nhiều khó khăn cho cơ quan kiểm tra, điều tra. Việc yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các công việc nêu trên để chủ động ngăn chặn kịp thời đảng viên tham nhũng bỏ trốn ra nước ngoài, hỗ trợ cho các cơ quan pháp luật trong việc thu hồi tài sản tham nhũng./.

Hà Quốc TrịThS, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Nguồn Tạp chí cộng sản: http://www.tapchicongsan.org.vn/home/xay-dung-dang/2018/51605/nang-cao-vai-tro-cua-uy-ban-kiem-tra-trung-uong-trong.aspx