Nâng cao hiệu quả thu hút FDI và vai trò của kiểm toán Nhà nước

Sáng 9-6, tại Hà Nội, Kiểm toán Nhà nước đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề 'Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư FDI và vai trò của Kiểm toán nhà nước'.

GS, TS Đoàn Xuân Tiên, Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước phát biểu tại Hội thảo.

GS, TS Đoàn Xuân Tiên, Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước phát biểu tại Hội thảo.

NDĐT- Sáng 9-6, tại Hà Nội, Kiểm toán Nhà nước đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư FDI và vai trò của Kiểm toán nhà nước”.

Tham dự hội thảo, có hơn 200 đại biểu đến từ các cơ quan của Quốc hội, bộ, cơ quan Trung ương và địa phương, trường đại học, viện nghiên cứu; chuyên gia, nhà khoa học; đại diện các tập đoàn, tổng công ty, đại diện các công ty kiểm toán độc lập, tổ chức, hội nghề nghiệp kiểm toán, kế toán…

Hơn 50 tham luận và các ý kiến trình bày trực tiếp tại hội thảo đã tập trung phân tích, chỉ rõ những thành công, hạn chế, triển vọng và đề xuất nhiều giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút các dự án FDI vào Việt Nam.

Kể từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay, đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA), đẩy mạnh cải cách thể chế, môi trường kinh doanh, Việt Nam đã chứng tỏ là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Từ khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài (năm 1987) đến nay, Việt Nam đã thu hút hơn 30 nghìn dự án đến từ 130 nước và vùng lãnh thổ, với tổng vốn đăng ký đạt 362 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 211 tỷ USD.

Các dự án FDI mang lại nguồn lực bổ sung, đóng góp vào tăng trưởng GDP, thu ngân sách Nhà nước và cải thiện cơ cấu kinh tế; tăng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và quyết định xu thế xuất siêu gần đây của Việt Nam. Đồng thời, FDI còn góp phần tạo công ăn việc làm và tăng năng suất lao động, tạo sức ép, buộc các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, gia tăng tìm hiểu thị trường xuất khẩu, tăng cường liên kết thương mại... Tính chung, các doanh nghiệp FDI đã chiếm tới khoảng 20% GDP, khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm hơn 40% giá trị sản xuất công nghiệp, hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu, gần 50% tổng kim ngạch nhập khẩu, chiếm khoảng 30% tổng thu NSNN của cả nước.

Tuy nhiên, theo Báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, hiện tượng các doanh nghiệp FDI kê khai, báo lỗ khá phổ biến, chiếm khoảng 50% tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên cả nước. Các hành vi “chuyển giá” đã gây thất thu lớn cho ngân sách, làm gia tăng giá trị nhập khẩu, tác động tiêu cực đến cán cân thương mại và cán cân thanh toán; làm môi trường kinh doanh trong nước xấu đi, sụt giảm hiệu quả sử dụng vốn FDI nói riêng và vốn nói chung. TP Hồ Chí Minh có tới gần 60% trong số hơn 3.500 doanh nghiệp FDI thường xuyên kê khai lỗ trong nhiều năm.

Một điều bất hợp lý là mặc dù thua lỗ liên tục và lỗ lớn, nhưng doanh nghiệp FDI vẫn mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh (các ví dụ điển hình như trường hợp của Cocacola hay Pepsi). Hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI đã gây thất thu cho ngân sách hàng chục nghìn tỷ đồng trong nhiều năm qua. Hơn nữa, nhiều dự án FDI sử dụng công nghệ lạc hậu và là nguyên nhân trực tiếp gây tổn hại môi trường sinh thái, chất lượng sản phẩm thấp, chi phí sản xuất cao. Các doanh nghiệp FDI nhận được nhiều ưu đãi hơn các doanh nghiệp nội địa, như miễn, giảm thuế, tiền thuê đất…

Quang cảnh Hội thảo.

Thực tiễn quản lý các dự án FDI trong thời gian qua cũng còn nhiều hạn chế, như: Chưa nhất quán giữa mục tiêu và biện pháp thực hiện thu hút các dự án FDI sử dụng công nghệ cao. Các chính sách ưu đãi thu hút được áp dụng chung cho toàn bộ các tỉnh, thành phố; chưa dựa trên lợi thế cạnh tranh, đặc thù của mỗi địa phương. Thực tế trên đã dẫn tới tình trạng cạnh tranh về thu hút FDI giữa các địa phương; các chính sách ưu đãi thu hút còn phức tạp, chồng chéo, nằm rải rác ở nhiều văn bản luật pháp khác nhau và thiếu cơ chế theo dõi quá trình thực hiện chính sách. Các chính sách ưu đãi thu hút FDI được đưa ra, nhưng chưa được một cơ quan độc lập, có năng lực đánh giá về kết quả quá trình thực hiện các chính sách ưu đãi thu hút FDI. Đồng thời, chưa thực hiện đánh giá tác động đầy đủ của chính sách và chi phí lợi ích mà chính sách đạt được. Ngoài ra, các thủ tục để được nhận ưu đãi chưa minh bạch, vẫn còn cơ chế xin cho, một số chính sách ưu đãi được ban hành, nhưng không có quy định về điều kiện và thủ tục để được hưởng ưu đãi…

Trong tầm nhìn trung và dài hạn, thu hút FDI vẫn là nhiệm vụ trọng tâm, tuy nhiên, chúng ta cần chủ động nhận diện mặt trái của việc thu hút đầu tư FDI đến kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là chú ý đến môi trường. Từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp và xây dựng các kế hoạch cụ thể nhằm khắc phục các bất cập, thách thức đang gặp phải.

Qua hoạt động kiểm toán hằng năm, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã phát hiện nhiều sai phạm liên quan đến các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trên một số lĩnh vực, như môi trường, đất đai, chuyển giá… Từ đó, đã có kiến nghị các cơ quan quản lý khắc phục những sai sót, yếu kém, sửa đổi, bổ sung các quy định để ngăn chặn các “lỗ hổng” về cơ chế, chính sách. Bên cạnh kết quả đã đạt được, vai trò của KTNN đối với việc kiểm toán các chính sách và việc thực thi các chính sách thu hút vốn đầu tư FDI trong thời gian qua còn một số hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán, cụ thể: Thứ nhất, cơ sở pháp lý để KTNN thực hiện kiểm toán việc ban hành chính sách và đánh giá việc thực thi chính sách thu hút vốn đầu tư FDI còn chưa rõ ràng, chưa theo đúng tinh thần của Hiến pháp và quy định của Luật KTNN.

Thứ hai, kiểm toán viên của KTNN mới thực hiện kiểm toán một số mắt xích rất nhỏ trong quá trình này như kiểm toán công tác quản lý thuế, đất đai, kiểm toán môi trường và cũng chưa có các chuyên đề kiểm toán riêng cho loại hình đặc biệt này.

Thứ ba, công tác phối hợp giữa KTNN và các cơ quan quản lý Nhà nước còn nhiều trở ngại do cơ sở pháp lý còn chưa rõ ràng, đặc biệt là về đối tượng, nội dung kiểm toán.

Thứ tư, các chính sách và biện pháp thực thi chính sách thu hút vốn đầu tư FDI thường rất phức tạp, bao gồm nhiều khía cạnh như kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng an ninh, xã hội, bản thân các dự án FDI cũng có quy mô lớn và ngày càng có xu hướng phát triển theo hướng công nghệ cao, phức tạp nên cũng đòi hỏi KTV phải tích cực cập nhật kiến thức để am hiểu được các lĩnh vực mới.

Có thể nói rằng KTNN mặc dù đã có nhiều cố gắng và đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng vẫn chưa đáp ứng được so yêu cầu, đòi hỏi chất lượng hoạt động kiểm toán và kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong việc đánh giá các chính sách và việc thực thi các chính sách thu hút vốn đầu tư FDI.

Thực tiễn cũng đặt ra yêu cầu cấp bách về sớm làm rõ một số vấn đề về xây dựng chính sách và quản lý các dự án FDI, đặc biệt là cơ sở pháp lý của KTNN trong kiểm toán việc ban hành chính sách, việc thực thi chính sách và quản lý Nhà nước đối với các dự án FDI; hoàn thiện và triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao vai trò, chất lượng kiểm toán của KTNN, cũng như cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin giữa KTNN và các cơ quan quản lý Nhà nước… nhằm góp phần phòng ngừa, hạn chế những mặt trái từ đầu tư FDI, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương và tính bền vững của nền tài chính quốc gia và đáp ứng sự kỳ vọng của Đảng, Quốc hội và nhân dân.

TS NGUYỄN MINH PHONG

Nguồn Nhân Dân: http://nhandan.com.vn/kinhte/tin-tuc/item/44796302-nang-cao-hieu-qua-thu-hut-fdi-va-vai-tro-cua-kiem-toan-nha-nuoc.html