Nâng cao hiệu quả các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung

Thời gian qua, tỉnh ta đã quan tâm đầu tư, phát triển mạng lưới cấp nước sinh hoạt, nhất là xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho vùng nông thôn, qua đó góp phần tăng cường sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Tuy nhiên, công tác xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung trên địa bàn tỉnh vẫn có một số bất cập cần sớm được khắc phục, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu được dùng nước sạch và ổn định của người dân.

Thường trực HĐND tỉnh tổ chức phiên họp giải trình về quản lý công trình cấp nước và quản lý chất lượng nước sinh hoạt trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Trần Đức

Chuyện sau đầu tư

Tính đến tháng9/2019, toàn tỉnh có 104 công trình cấp nước sinh hoạt, trong đó có 10 côngtrình cấp nước sinh hoạt đô thị; 94 công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn,phục vụ cho trên 300.000 hộ dân ở 126 xã, phường, thị trấn. Theo thống kê củangành chức năng, trong số 104 công trình cấp nước sạch trên địa bàn tỉnh, hiệncó đến 21 công trình hoạt động kém hiệu quả, 7 công trình đang xây dựng dở dangchưa kịp bàn giao và 16 công trình ngừng hoạt động để hòa mạng với các côngtrình khác. 7 công trình đang xây dựng dở dang chưa kịp bàn giao thì nay đãxuống cấp, hư hỏng và bỏ hoang gây lãng phí ngân sách nhà nước hàng chục tỷđồng, đó là công trình cấp nước xã Phú Long, Quỳnh Lưu, Gia Minh, Gia Phong,Gia Phương, Ninh Xuân, Khánh Nhạc. Mặc dù các công trình này đã được UBND tỉnhbàn giao cho các doanh nghiệp quản lý gắn với địa bàn theo phân vùng cấp nước,song các doanh nghiệp lại không có kế hoạch tiếp tục đầu tư để đưa vào sử dụng.Do vậy, người dân ở những địa phương này chưa có nước sạch sinh hoạt hoặc dùngnước sinh hoạt từ công trình nối mạng khác. Đặc biệt, tại xã Gia Minh (GiaViễn), các hộ dân đã đóng góp để đơn vị thi công xây dựng đường ống, tuy nhiênđến nay đã dừng thi công nhiều năm, số tiền người dân đóng góp cũng không đượcđơn vị hoàn trả lại.

Do một số côngtrình cấp nước xuống cấp, công suất thấp dẫn đến người dân ở một số khu vực venbiển, các khu, cụm dân cư xa trung tâm không có nước sinh hoạt tập trung hoặcthiếu nước do không đảm bảo về áp lực, lưu lượng nước. Điển hình trong việcthiếu nước đó là nhân dân các thôn Khai Khẩn, Vân Du Thượng thuộc xã Yên Thắng(Yên Mô) phải mua nước với giá 50 - 70 nghìn đồng/m3 để dùng vì áp lực nước yêúkhông tới được các hộ ở cuối nguồn. Đến nay, toàn tỉnh vẫn còn 19 xã chưa đượcsử dụng nước máy, 11 xã tỷ lệ người dân sử dụng nước máy đạt dưới 30%.

Đáng chú ý làhiện nay, nước mặt vẫn là nguồn nước nguyên liệu chính được các nhà máy, trạmcấp nước sử dụng sản xuất, cung cấp cho người dân. Song do chất lượng nước mặttrên địa bàn tỉnh không ổn định và có nguy cơ ô nhiễm cao do ảnh hưởng từ sảnxuất công nghiệp, nông nghiệp, biến đổi khí hậu, xả thải ra môi trường; do ýthức của người dân… khiến chi phí xử lý nước tăng lên, có thời điểm chất lượngnước nguồn tại một số địa phương không thể xử lý, phải tạm ngừng cấp nước đểđảm bảo an toàn chất lượng nước. Tại các trạm cấp nước khu vực nông thôn, nhiêùnơi chất lượng nước chưa đảm bảo, thiếu ổn định, nhất là các trạm nhỏ lẻ. Theobáo cáo của Sở Y tế: Năm 2018, qua kiểm tra, lấy 117 mẫu nước xét nghiệm của67/92 trạm cấp nước sinh hoạt nông thôn, kết quả 20/117 mẫu nước không đạt theoQCVN 02:2009/BYT. Năm 2019, qua kiểm tra, lấy mẫu 114 mẫu nước xét nghiệm ở 61trạm, kết quả 69/114 mẫu nước không đạt theo quy chuẩn. Các chỉ tiêu không đạtlà hàm lượng clo dư, hàm lượng pecmanganat, độ đục. Tổng số trạm cấp nước cóchất lượng nước không đạt là 26/61 trạm được kiểm định.

Đâu là giải pháp?

Không thể phủnhận lợi ích mà các công trình cung cấp nước sinh hoạt trong thời gian qua đãđem lại, tuy nhiên những bất cập trong câu chuyện sau đầu tư đã làm ảnh hưởngđến chất lượng, hiệu quả các công trình, gây bức xúc trong nhân dân. Và mơíđây, Thường trực HĐND tỉnh tổ chức phiên giải trình về việc quản lý các côngtrình cấp nước và quản lý chất lượng nước sinh hoạt trên địa bàn tỉnh. Đây đượcxem là một động thái quan trọng nhằm tạo điều kiện để các cơ quan, đơn vị đượcgiải thích, làm rõ trách nhiệm của mình trong công tác quản lý các công trìnhcấp nước, quản lý chất lượng nước và biện pháp khắc phục trong thời gian tới.

Tại phiên giảitrình, đại diện lãnh đạo các Sở: Nông nghiệp và PTNT, Y tế, Xây dựng và đạidiện lãnh đạo các công ty cấp, thoát nước trên địa bàn tỉnh đã trực tiếp giảitrình các nội dung thuộc trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết. Nhìn chung, thủtrưởng các cơ quan, đơn vị đã nghiêm túc, thẳng thắn trả lời giải trình, đồngthời đưa ra phương hướng, giải pháp khắc phục những hạn chế, khó khăn trongthời gian tới.

Trong đó, ông BùiXuân Diệu, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT đã trả lời làm rõ hơn công táctham mưu, chỉ đạo của Sở trong việc thực hiện chương trình nước sạch; chínhsách khuyến khích thu hút đầu tư, xã hội hóa lĩnh vực kinh doanh và những giảipháp để nâng tỷ lệ địa bàn/người dân được sử dụng nước sạch. Ông Bùi Xuân Diêụcho biết: Những bất cập trong công tác quản lý công trình cấp nước trong thơìgian qua còn những khó khăn nhất định và trách nhiệm không chỉ riêng Sở Nôngnghiệp và PTNT mà còn cần có sự vào cuộc hơn nữa của các cấp chính quyền, chủđầu tư và người dân. Tiếp thu ý kiến của các đại biểu trong phiên giải trình,thời gian tới, Sở Nông nghiệp và PTNT sẽ rà soát, đánh giá lại toàn bộ các côngtrình cấp nước đã được UBND tỉnh bàn giao cho các doanh nghiệp quản lý. Trên cơsở đó, Sở sẽ kiến nghị UBND tỉnh thu hồi những công trình mà doanh nghiệp khôngthực hiện đúng cam kết như khi bàn giao để thực hiện đấu thầu cho những đơn vịcó năng lực hơn tiếp nhận quản lý, đảm bảo hiệu quả các công trình.

Thực tiễn triểnkhai công tác quản lý công trình cấp nước và quản lý chất lượng nước sinh hoạtthời gian qua cho thấy sự chồng chéo giữa các sở, ban, ngành liên quan, nhất làsự phối hợp liên ngành và phối hợp với chính quyền địa phương trong quản lý đâùtư xây dựng cơ bản, quản lý chất lượng nước, xây dựng giá nước, hướng dẫn quảnlý vận hành và đào tạo nhân lực. Do vậy, một giải pháp được các sở, ngành đưara kiến nghị, đó là UBND tỉnh cần sớm ban hành Quy chế phối hợp, phân côngtrách nhiệm cụ thể giữa các cơ quan trong chuỗi hoạt động sản xuất, cung ứng,đảm bảo chất lượng nước sinh hoạt cung cấp cho người dân; biện pháp ứng phó vơítrường hợp khẩn cấp xảy ra khi ô nhiễm nguồn nước; ban hành Quy chuẩn kỹ thuậtnước sinh hoạt trong tỉnh. Chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, bổ sung việc phân vùng,quy hoạch cấp nước phù hợp với thực tế và năng lực các đơn vị, doanh nghiệp cấpnước. Tiếp tục có cơ chế, chính sách kêu gọi, thu hút đầu tư phát triển chươngtrình nước sạch nông thôn...

Bên cạnh đó cũngcần phải thấy rõ trách nhiệm trong đầu tư, quản lý, vận hành hoạt động cung ứngnước sạch của doanh nghiệp, nhà máy, trạm cấp nước có mặt chưa nghiêm túc, chưađúng quy trình; nhiều trạm chưa hiệu quả, tỷ lệ thất thoát nước còn cao. Do đó,các công ty chịu trách nhiệm cung ứng nước sạch cần phải thay đổi phương thứcquản lý, thực hiện nghiêm quy trình vận hành, định mức kỹ thuật, đảm bảo cungcấp nước sạch cho người dân; đồng thời cần nêu cao trách nhiệm trong việc phôíhợp với cơ quan chức năng trong việc bảo vệ nguồn nước nguyên liệu...

Những bất cậptrong công tác quản lý công trình cấp nước và quản lý chất lượng nước sinh hoạtthời gian qua là khá rõ và để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi không chỉ sự nỗlực từ các chủ đầu tư mà cần sự vào cuộc tích cực hơn của các cấp, các ngànhquản lý cho đến mỗi người dân. Đã đến lúc người dân cần phải nâng cao nhậnthức, thay đổi hành vi, thói quen sử dụng nước không hợp vệ sinh, chung taygiám sát, bảo vệ nguồn nước mặt nguyên liệu. Có như vậy mới đảm bảo hiệu quảcác công trình cấp nước sạch tập trung, vì mục tiêu nâng cao chất lượng đơìsống nhân dân.

Mai Lan

Nguồn Ninh Bình: http://baoninhbinh.org.vn/nang-cao-hieu-qua-cac-cong-trinh-cap-nuoc-sinh-hoat-tap-trung-2019120308249529p12c92.htm