Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới (tiếp theo và hết)

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Đảng coi đó là nội dung cốt lõi của công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: 'Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do có nhiều chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt'. Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và các nghị quyết của Đảng qua các nhiệm kỳ Đại hội đều khẳng định: 'Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên'; 'Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở'; 'đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam'… Thực tiễn cho thấy, nơi nào xây dựng được hệ thống tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao và đội ngũ đảng viên có chất lượng, tiền phong, gương mẫu thì tạo ra sức mạnh tổng hợp, đóng góp vào công tác xây dựng Đảng và thành tựu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên còn có hạn chế, ảnh hưởng tới vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở… Để phát huy vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của tổ chức cơ sở đảng, đội ngũ đảng viên, cần khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, vướng mắc trong thực tiễn và có biện pháp cụ thể nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên sẽ được tác giả trả lời trong bài viết 2 kỳ!

Kỳ II:

COI TRỌNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN

Từ Nghị quyết Đại hội X đến Nghị quyết Đại hội XI, XII, Đảng luôn đặt ra yêu cầu phải quan tâm xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, nhất là về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, tính tiên phong, gương mẫu. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đánh giá bên cạnh ưu điểm, một bộ phận đảng viên thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vậy làm thế nào để đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự “là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân”[1].

Các cấp ủy luôn bám sát sự chỉ đạo của Đảng

Cùng với các nghị quyết Đại hội Đảng, Nghị quyết số 22-NQ/TW “về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”, Kết luận số 38-KL/TW về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định, quy chế… liên quan trực tiếp đến phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Thực hiện các nghị quyết, văn bản của Đảng có liên quan, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương đã ban hành khoảng 800 văn bản (chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, hướng dẫn...) để cụ thể hóa, tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Nhiều cấp ủy quan tâm chỉ đạo sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, đề án ở cấp mình, rút kinh nghiệm, bổ sung giải pháp chỉ đạo phù hợp để xây dựng đội ngũ đảng viên có năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức tốt.

Trong 10 năm qua (từ 2010-2020), công tác xây dựng đội ngũ đảng viên đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Tính đến 31-12-2021, toàn Đảng có tổng số 5.325.532 đảng viên. Công tác phát triển đảng viên được chú trọng, số lượng đảng viên tăng mạnh mẽ qua các nhiệm kỳ: Nếu Đại hội lần thứ nhất (1935) toàn Đảng có 600 đảng viên đến Đại hội lần thứ VI (1986) có 2.109.613 đảng viên và Đại hội lần thứ X (2006) có 3.100.000 đảng viên, Đại hội lần thứ XI (2011) có 3.636.158 đảng viên, Đại hội lần thứ XII (2016) có 4.769.325 đảng viên. Trung bình 10 năm qua, mỗi năm tăng 143.357 đảng viên. Đến nay tỷ lệ đảng viên trên dân số cả nước là 5,4% (bình quân 100 người dân có khoảng 6 đảng viên). Cơ cấu độ tuổi tương đối phù hợp, số lượng đảng viên nữ, trẻ, đồng bào dân tộc thiểu số, người có tôn giáo, chủ doanh nghiệp tư nhân tăng, tạo nguồn cán bộ cho Đảng. Đảng viên nữ chiếm 38,1% tổng số đảng viên toàn Đảng, sau 10 năm, tỷ lệ đảng viên nữ tăng gấp 1,8 lần so với tỷ lệ tăng đảng viên của toàn Đảng. Đảng viên là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 12,3%. Đảng viên là người có tôn giáo chiếm 1,8%. Độ tuổi trung bình của đảng viên là 43,9 tuổi (tăng 0,1 tuổi so với năm 2010).

Chất lượng đội ngũ đảng viên có chuyển biến tích cực; trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị ngày càng cao hơn (đảng viên có trình độ đại học trở lên chiếm khoảng 55%; có trình độ lý luận chính trị từ sơ cấp trở lên hơn 60%; toàn Đảng không còn đảng viên chưa biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ[2]). Các cấp ủy tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, quản lý, rà soát, sàng lọc, đánh giá, xếp loại chất lượng, kiểm tra, giám sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ, xử lý đảng viên vi phạm, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được đẩy mạnh. Phần lớn đội ngũ đảng viên ở cơ sở đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, ý thức tự phê bình và phê bình, tinh thần tiền phong, gương mẫu, xây dựng mối quan hệ gắn bó với nhân dân, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.

Chỉ rõ hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân

Đội ngũ đảng viên là nhân tố quyết định công tác xây dựng Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị. Tuy nhiên, công tác phát triển đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa quan tâm giáo dục lý tưởng cách mạng và rèn luyện thử thách đối với quần chúng phấn đấu vào Đảng. Nhận thức, động cơ phấn đấu vào Đảng của một số đảng viên mới còn hạn chế. Cơ cấu đảng viên chưa hợp lý, đảng viên là công nhân, người lao động, đồng bào dân tộc thiểu số, đảng viên có tôn giáo còn thấp, tỷ lệ đảng viên trẻ chưa tương xứng với tiềm năng. Một bộ phận đảng viên năng lực hạn chế, phai nhạt lý tưởng, thiếu bản lĩnh chính trị; giảm sút ý chí phấn đấu, tinh thần đấu tranh, tự phê bình và phê bình yếu; chưa gương mẫu, chạy theo lối sống thực dụng. Vẫn còn một bộ phận đảng viên suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hiện nay ở cơ sở có một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác đảng viên: Một số tổ chức cơ sở đảng đông đảng viên nhưng không có cán bộ chuyên trách, bí thư cấp ủy kiêm nhiệm. Đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách công tác đảng chưa được thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ, cập nhật kiến thức mới và ít kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước gặp nhiều khó khăn trong các khâu của công tác đảng viên như bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng, đảng viên; phân công người giới thiệu, giúp đỡ quần chúng vào Đảng; doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng thì đảng viên vẫn sinh hoạt đảng tại nơi cư trú... Thủ tục chuyển sinh hoạt đảng cho đảng viên đi làm ăn xa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Một bộ phận đảng viên hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương xin ra khỏi Đảng. Một số đảng viên vừa nghỉ hưu đã xin miễn hoặc bỏ sinh hoạt đảng. Cơ sở vật chất, điều kiện, kinh phí hoạt động của các tổ chức đảng ở nhiều xã, phường, thị trấn, doanh nghiệp còn khó khăn, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức đảng ngoài nước, nơi có đông đảng viên, đảng viên làm việc phân tán...

Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc do quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế phát sinh nhiều vấn đề mới, tác động đến công tác xây dựng đội ngũ đảng viên nhưng chưa được nghiên cứu đầy đủ, có giải pháp phù hợp. Vẫn còn một số cấp ủy, một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đầy đủ về yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Còn có quy định, hướng dẫn về đảng viên chậm được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung. Một số nơi thực hiện chủ trương hướng về cơ sở hiệu quả chưa thực chất; chưa chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cho đảng viên. Một bộ phận thanh niên giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng, sống thực dụng, xa rời truyền thống tốt đẹp của dân tộc, không muốn phấn đấu vào Đảng.

Tập trung giải pháp nâng cao chất lượng đảng viên

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên.”[3], các cấp ủy tập trung một số giải pháp sau:

Một là, đổi mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đảng viên. Các cấp ủy cần đổi mới hình thức giáo dục chính trị tư tưởng sinh động, phong phú để đảng viên nhận thức đúng, sâu sắc. Đẩy mạnh sự tự giác nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong mỗi đảng viên; nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự của người đảng viên. Cấp ủy chủ động nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, lắng nghe tâm tư, dư luận để kịp thời định hướng cho đảng viên trước những vấn đề phát sinh và yêu cầu mỗi đảng viên phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các cấp ủy nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Phát huy vai trò của cơ quan báo chí trong tuyên truyền, giới thiệu tấm gương đảng viên tiêu biểu, tạo sự lan tỏa trong Đảng, trong xã hội.

Hai là, coi trọng công tác quản lý đảng viên và kịp thời rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. Cấp ủy cơ sở thường xuyên kiểm tra, giám sát các chi bộ, đảng viên thực hiện chế độ sinh hoạt đảng định kỳ. Thực hiện nghiêm túc kiểm tra việc quản lý đảng viên tại chi bộ và đảng viên ở ngoài nước. Cấp ủy, chi bộ chỉ đạo phân công nhiệm vụ cụ thể và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên. Mỗi đảng viên phải xây dựng kế hoạch phấn đấu, rèn luyện để chi ủy, chi bộ kiểm tra, giám sát, làm cơ sở để kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cuối năm. Trong công tác đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên kịp thời phát hiện, động viên, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực. Đối với những đảng viên có biểu hiện hoặc không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có khuyết điểm, vi phạm, cấp ủy, người đứng đầu thường xuyên nhắc nhở, giáo dục, động viên, giúp đỡ.

Các cấp ủy chấn chỉnh, khắc phục tình trạng tùy tiện, buông lỏng quản lý trong xem xét miễn công tác và sinh hoạt đảng cho đảng viên. Yêu cầu đảng viên thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú. Cơ quan chức năng nghiên cứu, rà soát, bổ sung quy định về quản lý đảng viên đi học tập, làm ăn xa nơi cư trú; đảng viên nghỉ hưu về làm việc trong khu vực ngoài nhà nước, các hội quần chúng; đảng viên ở ngoài nước và đảng viên ra nước ngoài. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý đảng viên.

Tổ chức cơ sở đảng phải bám sát, nắm sâu và đánh giá được đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ; xác định được đảng viên không thực hiện đúng chế độ chuyển sinh hoạt hoặc đã chuyển sinh hoạt đảng nhưng không nộp hồ sơ cho tổ chức đảng có thẩm quyền; đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đảng viên thiếu gương mẫu, uy tín thấp. Đây là cơ sở để cấp ủy tiến hành rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. Khắc phục triệt để tình trạng dễ dãi, nể nang, né tránh trong công tác đánh giá, phân loại đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.

Ba là, tập trung nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên. Căn cứ tình hình thực tế, các cấp ủy xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên của cả nhiệm kỳ, hằng năm. Chỉ đạo các chi bộ, đảng viên tạo môi trường thuận lợi, hướng dẫn, giúp đỡ để quần chúng phấn đấu, rèn luyện, giác ngộ lý tưởng, có động cơ, mục đích vào Đảng trong sáng. Tiếp tục tăng số lượng đồng thời với nâng cao chất lượng phát triển đảng viên; chú trọng phát hiện, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang; quan tâm phát triển đảng viên là công nhân, trí thức, doanh nhân để tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp trước mắt và lâu dài. Quan tâm phát triển đảng viên ở miền núi, biên giới, hải đảo theo phương châm “ở đâu có dân thì ở đó có đảng viên”. Đối với các địa phương còn nhiều thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, trường học, doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên, cần tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác để tập hợp quần chúng, tạo nguồn kết nạp đảng viên, xây dựng lực lượng nòng cốt cho Đảng. Cấp ủy cấp trên trực tiếp của cơ sở phân công cấp ủy viên phụ trách, cấp ủy cơ sở giao nhiệm vụ cho các chi bộ trong việc phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ quần chúng phấn đấu vào Đảng. Đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng và đảng viên mới bảo đảm thiết thực, hiệu quả theo hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu, nhất là xác định đúng đắn động cơ vào Đảng. Đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, kiểm tra, sát hạch phù hợp với từng đối tượng. Có kế hoạch mở lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng viên là công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân.

Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; phát huy và tăng cường vai trò của mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng, giám sát đảng viên.

Cải tiến phương pháp, quy trình, kỹ năng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Đổi mới các cơ chế, biện pháp để chủ động phát hiện sớm, phòng ngừa, ngăn chặn từ xa những vi phạm của đảng viên. Thực hiện nghiêm minh việc kỷ luật đảng đối với đảng viên vi phạm. Coi trọng việc tự kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng đối với đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao, trách nhiệm nêu gương, quy định về những điều đảng viên không được làm…

Phát huy và tăng cường vai trò của mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát với đảng viên trong thực hiện quy định nêu gương, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống ở nơi làm việc và nơi cư trú. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thường xuyên phát động, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, từ đó phát hiện, lựa chọn nhân tố tích cực trong đoàn viên, hội viên, quần chúng, người có uy tín trong cộng đồng dân cư giới thiệu cho Đảng. Đồng thời, phát huy ưu thế của mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong tuyên truyền, vận động nhân dân giám sát đội ngũ đảng viên, tham gia xây dựng Đảng. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng, xếp loại đảng hằng năm.

Đội ngũ đảng viên là lực lượng nòng cốt, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân, là nhân tố kết nối, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, góp sức cùng nhân dân thực hiện thắng lợi, phát triển sự nghiệp cách mạng của Đảng. Nhiệm kỳ 2020-2025 nhiều khó khăn, thách thức cũng như thời cơ thuận lợi, đòi hỏi, yêu cầu phải nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức để ”mỗi đảng viên... phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”[4], ”xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân”[5] như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn.

[1] Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, NXBCTQG, Hà Nội 2011, tr.7.

[2] Năm 2010 vẫn còn 353 đảng viên chưa biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.

[3] Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu XIII của Đảng.

[4] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG-ST, Hà Nội 2011, tập 3, tr.219.

[5] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG-ST, Hà Nội 2011, tập 5, tr.252.

Thu Thủy, Viết Cường, Hữu ThưởngVụ Cơ sở đảng, đảng viên, Ban Tổ chức Trung ương

Nguồn Xây Dựng Đảng: http://www.xaydungdang.org.vn/home/lyluan-thuctien-kinhnghiem/2022/16693/nang-cao-chat-luong-to-chuc-co-so-dang-doi-ngu-dang.aspx