Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay

TCCS - Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay rất cần sự quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa của Đảng, Chính phủ về cơ chế, chính sách; sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả của các ngành, các cấp, các địa phương và đặc biệt là sự nỗ lực, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức của toàn thể đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị.

Lớp cập nhật thông tin tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo cho cán bộ chủ chốt thuộc các sở, ban ngành, đoàn thể của 27 tỉnh, thành phố trong cả nước. Ảnh: TTXVN

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Theo thống kê của Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, “Về công tác tôn giáo”, tính đến tháng 6-2017, Nhà nước đã công nhận 41 tổ chức thuộc 15 tôn giáo, với khoảng 25,3 triệu tín đồ (chiếm 27% dân số trong cả nước), gần 61 nghìn chức sắc, 134 nghìn chức việc, 28 nghìn cơ sở thờ tự và 56 trường đào tạo. Trong đó, Phật giáo có trên 14 triệu tín đồ, trên 30 nghìn chức sắc, 42 trường đào tạo và gần 18,5 nghìn cơ sở thờ tự; Công giáo có trên 7 triệu tín đồ, gần 7,5 nghìn chức sắc, 10 trường đào tạo và gần 7,8 nghìn cơ sở thờ tự; Cao đài có trên 1,1 triệu tín đồ, gần 13,5 nghìn chức sắc, 1 trường đào tạo và gần 1,2 nghìn cơ sở thờ tự; Tin lành có trên 1 triệu tín đồ, trên 2 nghìn chức sắc, 1 trường đào tạo và trên 600 cơ sở thờ tự...

Trong quá trình hoạt động và phát triển, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, thực hiện chủ trương, chính sách nhất quán là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo được thể hiện ở những mức độ khác nhau và theo hướng ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hơn. Từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới (năm 1986), công tác tôn giáo được Đảng và Nhà nước rất chú trọng, thông qua việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan đến công tác này, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và các chức sắc tôn giáo, có tác dụng động viên các tổ chức tôn giáo tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, vì cộng đồng, thực hiện nhiều hoạt động thiết thực, thể hiện rõ phương châm “lợi đạo - ích đời”.

Để có thể triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo trong đời sống xã hội nói chung, trong các tổ chức tôn giáo và đồng bào có đạo nói riêng, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân liên quan đến tôn giáo được thực hiện đầy đủ và hiệu quả; đồng thời đấu tranh với các thế lực thù địch, thiếu thiện chí lợi dụng niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào có đạo để tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tín ngưỡng, tôn giáo, kích động gây rối, làm ảnh hưởng đến đoàn kết nội bộ tôn giáo, đến mối quan hệ đạo - đời, làm phương hại đến cuộc sống ổn định của người dân..., Đảng và Nhà nước cũng rất quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.

Năm 1955, cơ quan đầu tiên có chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 566/NĐ-TTg, ngày 2-8-1955, của Thủ tướng Chính phủ, về “Lập Ban Tôn giáo, một đơn vị trong Ban Nội chính Chính phủ và trực thuộc Thủ tướng phủ”, tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày nay. Cùng với việc quan tâm xây dựng tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, trong đó chủ yếu là xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, ở các ngành, các cấp, tại Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, “Về công tác tôn giáo”, Đảng ta xác định: “Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn”. Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 10-1-2018, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác tôn giáo trong tình hình mới” tiếp tục khẳng định: “Sắp xếp hợp lý, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo; tăng cường cán bộ làm công tác tôn giáo..., tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác tôn giáo để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thực tiễn, nâng cao năng lực quản lý, thực thi pháp luật; bảo đảm kinh phí hoạt động và có chế độ, chính sách khuyến khích, thu hút cán bộ làm công tác tôn giáo”.

Công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, nhưng để làm tốt công tác tôn giáo, cùng với việc Đảng, Nhà nước ban hành những chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp đối với các hoạt động tôn giáo, thì vai trò của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo cũng rất quan trọng. Tuy nhiên, thời gian qua đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo vẫn còn có những bất cập, thể hiện ở 3 phương diện cơ bản sau:

Thứ nhất, về đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.

Tuyệt đại đa số cán bộ làm công tác tôn giáo không được đào tạo cơ bản về công tác tôn giáo. Các cơ quan, đơn vị làm công tác tôn giáo đều phải tuyển và nhận người về làm việc từ các ngành gần với chuyên ngành tôn giáo học (như triết học, sử học, văn hóa học...); sau đó họ phải vừa làm việc, vừa tự học và học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước, hoặc được cơ quan, đơn vị cử đi tiếp tục đào tạo. Tình trạng này là do trước đây chỉ có một số trường đại học, học viện đào tạo chuyên ngành tôn giáo học, như Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đào tạo sau đại học chuyên ngành tôn giáo học; Viện Nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đào tạo cử nhân chính trị chuyên ngành tôn giáo học và đào tạo sau đại học chuyên ngành tôn giáo học; Học viện Hành chính quốc gia có Khoa Quản lý nhà nước về xã hội có một môn học về tôn giáo. Đến năm 2017, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội mới đào tạo hệ cử nhân chuyên ngành tôn giáo học.

Từ thực tế chưa có chuyên ngành đào tạo công tác tôn giáo, trong khi yêu cầu cấp thiết là phải bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, năm 2007, trên cơ sở đề nghị của Ban Tôn giáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 83/QĐ-TTg, ngày 08-6-2007, “Phê duyệt “Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo, cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo” giai đoạn 2006 - 2010”. Kết thúc Đề án (được kéo dài đến năm 2012), Ban Tôn giáo Chính phủ đã tổ chức được 46 lớp bồi dưỡng kiến thức về tôn giáo với 7.663 lượt người tham dự và các địa phương đã tổ chức được 998 lớp bồi dưỡng với 6.685 lượt người tham dự. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả của việc thực hiện Đề án này, ngày 9-2-2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 174/QĐ-TTg về “Phê duyệt “Đề án bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo giai đoạn 2017 - 2020” cho đối tượng làm công tác tôn giáo ở các ngành, các cấp và các địa phương.

Hai đề án nêu trên đã và đang được triển khai thực hiện có hiệu quả, từng bước nâng cao được chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, nhưng về cơ bản, đây mới chỉ là biện pháp giải quyết mang tính tình thế, chưa phải là giải pháp căn cơ và đồng bộ trong việc bảo đảm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác tôn giáo.

Thứ hai, về tâm huyết, sự gắn bó của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo đối với công tác tôn giáo nói chung, ngành quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng.

Tôn giáo là một lĩnh vực đặc thù của đời sống xã hội, bởi vậy công tác tôn giáo luôn đặt ra yêu cầu cao và tương đối toàn diện đối với người làm công tác tôn giáo, như phải có sự hiểu biết về tôn giáo, am hiểu những quy định có liên quan đến hoạt động tôn giáo và những quy định về các lĩnh vực văn hóa, di sản, xây dựng, tài nguyên môi trường, y tế, giáo dục, từ thiện - nhân đạo... Ngoài ra, cán bộ làm công tác tôn giáo còn cần có những phẩm chất để giao tiếp với những công dân đặc biệt, đó là các chức sắc, chức việc hoạt động trong lĩnh vực tâm linh và có ảnh hưởng trong một bộ phận quần chúng tín đồ tôn giáo; có khả năng vận động, thuyết phục, hướng dẫn các tín đồ tôn giáo,... Họ cũng phải dành thời gian cho công việc nhiều hơn so với các ngành, nghề khác, vì các hoạt động, sự kiện của tôn giáo thường diễn ra vào ngày nghỉ, ngày lễ, ngày tết, ngoài giờ làm việc. Những người làm công tác tôn giáo phải chịu nhiều vất vả, khó khăn và phải đáp ứng yêu cầu cao như vậy, nhưng cho đến nay vẫn chưa được hưởng chế độ đãi ngộ đặc thù. Đó là lý do khiến nhiều người làm công tác tôn giáo chưa tâm huyết, gắn bó với nghề. Theo thống kê của Ban Chỉ đạo Trung ương xây dựng Đề án “Tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp”, chỉ tính riêng ngành quản lý nhà nước về tôn giáo, trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến tháng 6-2012, có gần 50% số cán bộ từ Trung ương đến địa phương nghỉ hưu, chuyển công tác hoặc bỏ ngành. Điều đó cũng có nghĩa là, khoảng 50% số cán bộ làm công tác tôn giáo là cán bộ mới. Đây là con số đáng báo động về một ngành công tác đặc thù cần lớp cán bộ kế cận có kinh nghiệm, đáp ứng được yêu cầu công tác.

Thứ ba, về áp lực của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.

Người làm công tác tôn giáo ngoài việc thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, còn phải có phẩm chất, bản lĩnh chính trị vững vàng và kiến thức tổng hợp, có khả năng đối thoại, thuyết phục không chỉ đối với tổ chức, cá nhân tôn giáo mà còn đối với quần chúng tín đồ, những người tin theo tôn giáo.

Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo hiện nay phải chịu áp lực rất lớn từ công việc, đặc biệt là từ khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP, ngày 30-12-2017, của Chính phủ, về “Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo” có hiệu lực (từ ngày 1-1-2018), Chính phủ đã chính thức quy định chức năng quản lý nhà nước về tín ngưỡng và giao trách nhiệm cho các cơ quan liên quan thực hiện. Theo đó, cùng với việc được quy định thêm chức năng quản lý nhà nước về tín ngưỡng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cũng tăng lên rất nhiều (từ 57 nội dung lên 91 nội dung), đồng thời những công việc cần có sự phối hợp với các bộ, các ban, ngành ở Trung ương và địa phương cũng tăng lên. Trong khi đó, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo không được bổ sung mà vẫn phải thực hiện chủ trương chung về tinh giản biên chế; có địa phương còn thu gọn đầu mối cơ quan tham mưu về công tác tôn giáo. Điều này phần nào ảnh hưởng tới tâm lý và sự nỗ lực công tác của đội ngũ làm công tác tôn giáo.

Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng phạm vi chủ thể có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo - từ “công dân” thành “mọi người”, thể hiện đúng bản chất quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người, chứ không chỉ là quyền của công dân như các bản Hiến pháp trước đây khẳng định. Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có nhiều quy định theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, như người bị hạn chế quyền công dân cũng được sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được tạo điều kiện thuận lợi hơn trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo. Các thủ tục hành chính về hoạt động tôn giáo được cắt giảm và giải quyết nhanh gọn hơn, theo hướng tăng cường công tác hậu kiểm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không gây mất thời gian của các tổ chức và cá nhân tôn giáo. Cùng với việc Nhà nước mở rộng quyền và tạo điều kiện hơn cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo hoạt động, nhiều loại hình và hoạt động tín ngưỡng cũng được phục hồi, phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực về giá trị đạo đức, làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt, hoạt động của các loại hình tín ngưỡng có lúc, có nơi vẫn còn mang tính tự phát, chưa được quản lý; một số nội dung hoạt động tín ngưỡng bị biến dạng, phản văn hóa, với mục đích trục lợi, gây mất an ninh, trật tự ở một số địa phương. Xu hướng thương mại hóa trong hoạt động tín ngưỡng, gắn sinh hoạt tín ngưỡng với hoạt động du lịch, dịch vụ đang trở thành hiện tượng phổ biến.

Về tôn giáo, hiện còn 70 tổ chức, hệ phái tôn giáo chưa được Nhà nước công nhận, trong đó có một số tổ chức đang đề nghị được công nhận. Cũng giống như tín ngưỡng, nhiều tổ chức, hệ phái tôn giáo chưa được Nhà nước công nhận có những mặt tích cực, đóng góp cho giá trị chung của xã hội, nhưng bên cạnh đó vẫn còn xuất hiện các “hiện tượng tôn giáo mới” có hoạt động phức tạp, không ít hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, tạo nên những hệ lụy về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, trật tự. Quá trình phát triển và biến đổi của các “hiện tượng tôn giáo mới” hiện nay rất khó đoán định, gây nhiều khó khăn cho việc giải quyết và hoạch định chính sách đối với loại hình này...

Ở bình diện đối ngoại tôn giáo, xu hướng quốc tế hóa của tôn giáo là xu hướng tất yếu, khách quan trong quá trình toàn cầu hóa. Bản thân các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước đã và đang có quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, biểu hiện thông qua việc chức sắc, các tín đồ các tôn giáo học tập, nghiên cứu, hội họp hay tham gia các hoạt động xã hội ở nước ngoài và người nước ngoài cũng đến Việt Nam để sinh sống hay nghiên cứu những giá trị văn hóa tôn giáo của người Việt Nam. Trong quá trình giao lưu đó, sẽ làm nảy sinh nhiều yếu tố mới trong nghi lễ hành đạo, sinh hoạt tôn giáo..., gây không ít khó khăn, trở ngại cho công tác tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo. Mặt khác, việc các thế lực thù địch lợi dụng xu hướng quốc tế hóa của tôn giáo để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm kích động chức sắc, tín đồ các tôn giáo chống phá ta cũng là một điều đáng quan tâm, chú ý.

Tình hình nói trên đặt ra thách thức lớn đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Bởi vậy, phải xây dựng nguồn nhân lực đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng mới có thể đáp ứng được yêu cầu công việc đặt ra.

Như vậy, có thể thấy, so với tình hình phát triển và những yếu tố tiềm ẩn sự phức tạp của các tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, cùng với chính sách tôn giáo rộng mở của Đảng, Nhà nước ta hiện nay thì tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nói chung cũng như đội ngũ cán bộ ngành quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng chưa tương xứng về quy mô và vị thế, chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao.

Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nói chung và đội ngũ cán bộ ngành quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng, cần có các giải pháp sau:

Một là, cần có trường đại học hoặc phân khoa đào tạo chuyên ngành về công tác tôn giáo (hiện nay, một số học viện và trường đại học mới chủ yếu đào tạo chuyên ngành về nghiên cứu tôn giáo). Việc này có thể giao cho Viện Nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, hoặc Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện. Để bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo, bồi dưỡng, Bộ Nội vụ (cơ quan trực tiếp tham mưu là Ban Tôn giáo Chính phủ) cần được giao xây dựng kế hoạch tổng thể về đào tạo, bồi dưỡng các ngành học, trong đó có môn thần học của các tôn giáo, bằng nhiều hình thức, kể cả gửi ra nước ngoài đào tạo hoặc bồi dưỡng ngắn hạn để qua đó học hỏi kinh nghiệm làm công tác tôn giáo, đồng thời tìm hiểu về cách ứng xử đối với tôn giáo ở một số nước trên thế giới.

Hai là, các cơ quan trong hệ thống chính trị làm công tác tôn giáo cần thường xuyên cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo, đào tạo lại và các lớp bồi dưỡng, cập nhật thông tin, kiến thức liên quan đến tôn giáo do các trường đại học, học viện và các cơ quan chuyên môn thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ, Học viện Hành chính quốc gia tổ chức. Bên cạnh việc ủng hộ, tạo điều kiện của các cơ quan quản lý cán bộ làm công tác tôn giáo và sự nỗ lực học tập của đội ngũ học viên thì các trường đại học, học viện và các cơ quan hữu quan khi mở các khóa đào tạo, các lớp bồi dưỡng về công tác tôn giáo cần quan tâm đến việc đổi mới nội dung, chương trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ giảng dạy cho phù hợp với đối tượng học viên là đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo - những người đã có thời gian trải nghiệm qua công việc thực tiễn, đáp ứng được nhu cầu của người học và yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Ba là, nâng cao chất lượng công tác tổng kết, đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo để làm cơ sở tham mưu với Đảng, Nhà nước xác định rõ mô hình và thiết lập một hệ thống làm công tác tôn giáo ổn định, đồng bộ, có hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, thống nhất trong chỉ đạo và hoạt động; đồng thời, phát hiện những nội dung còn bất hợp lý, không phù hợp với thực tiễn trong những quy định về công tác cán bộ làm công tác tôn giáo, cũng như những vấn đề mới nảy sinh liên quan đến cán bộ và công tác cán bộ làm công tác tôn giáo để kịp thời khắc phục và đề xuất với Đảng, Nhà nước điều chỉnh cho phù hợp.

Bốn là, việc sử dụng, bố trí, bổ nhiệm, điều động cán bộ làm công tác tôn giáo phải hợp lý, đặc biệt là đối với những người đứng đầu; quan tâm và ưu tiên đối với những người có trình độ, năng lực và kinh nghiệm trong công tác tôn giáo, có trách nhiệm đối với công việc; xác định rõ nguyên tắc vì việc mà bố trí người, tránh tình trạng bố trí, sử dụng cán bộ không đúng người, đúng việc, sử dụng cán bộ không trên cơ sở chuyên môn, sở trường dẫn tới lãng phí nguồn lực, không mang lại kết quả, đồng thời ảnh hưởng tới tâm tư, tình cảm và sự phấn đấu của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo; kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp cán bộ sai phạm trong công tác tôn giáo, không để ảnh hưởng tới niềm tin của các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo và quần chúng nhân dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo, tín ngưỡng.

Năm là, cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo theo hướng thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức, theo đó, động viên được cả về phương diện vật chất (thông qua cơ chế đặc thù về tiền lương, phụ cấp...) và phương diện tinh thần (quan tâm tới các chế độ, như khen thưởng, nghỉ dưỡng, các hoạt động giao lưu, học hỏi kinh nghiệm làm công tác tôn giáo giữa các địa phương...)./.

Vũ Chiến ThắngTS, Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ

Nguồn Tạp chí cộng sản: http://www.tapchicongsan.org.vn/home/xay-dung-dang/2018/52408/nang-cao-chat-luong-doi-ngu-can-bo-lam-cong-tac-ton.aspx