Mức thuế đánh vào hành vi tiêu cực với môi trường chưa đủ sức răn đe

TS. Nguyễn Mạnh Hải, Trưởng ban Nghiên cứu các vấn đề xã hội, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, sở dĩ môi trường của Việt Nam hiện nay chưa được chú trọng bảo vệ một phần là do các mức thuế áp dụng chưa điều chỉnh được hành vi tiêu cực…

TS. Nguyễn Mạnh Hải

Ông có thể chia sẻ rõ hơn về vấn đề này?

- Có một thực tế hiện nay tại Việt Nam là chính sách thuế nhằm hạn chế sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm gây nguy hại đối với môi trường chưa phù hợp với thực tiễn. Số thu từ các sắc thuế này chưa tương xứng với những tổn hại do hoạt động sản xuất, tiêu dùng gây ra. Chỉ khi xảy ra các sự việc lớn tác động nguy hại đến môi trường thì mới có sự vào cuộc.

Tôi lấy ví dụ, nếu thuế môi trường đối với sản phẩm nilon, phân bón, thuốc trừ sâu… cao hơn thì ý thức bảo vệ môi trường sẽ tốt hơn. Cụ thể hiện nay chúng ta sử dụng túi nilon tràn lan, điều đó có nghĩa là biểu hiện đầu tiên của việc đánh thuế vào túi nilon chưa cao.

Hiện mỗi kg túi nilon thuộc diện chịu thuế chúng ta chỉ phải đóng ở mức 50.000 đồng; thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng chỉ có mức chịu thuế 500 đồng/kg; thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế là 1.000 đồng/kg… Rõ ràng mức thuế này là chưa cao nếu so với mức độ ảnh hưởng tới môi trường.

Ở rất nhiều nước đã phải dùng túi vải, túi giấy hoặc túi dùng nhiều lần… Đó không hẳn chỉ là ý thức người dân tốt, ở đây còn do các mức thuế cũng như mức chi phí mà họ phải trả cao hơn dẫn đến việc điều chỉnh hành vi. Tôi hy vọng Việt Nam cũng như vậy.

Có ý kiến cho rằng, việc sử dụng công cụ chính sách thuế nhằm điều tiết nền kinh tế tăng trưởng xanh sẽ tạo ra thuế chồng thuế cho doanh nghiệp?

- Bất cứ chính sách nào đều có mặt tích cực và mặt tác động không mong muốn. Chính sách cho tăng trưởng xanh cũng sẽ có những tác động không mong muốn.

Hiện nay phạm vi nghiên cứu của chúng tôi chưa đến mức đánh giá mức độ của từng sắc thuế, nhưng nhận xét chung ban đầu chúng tôi thấy cần điều chỉnh hầu hết các mức thuế của các sắc thuế, có thể điều chỉnh nhỏ hoặc lớn, xuất phát từ thực tế hiện nay. Những ngành nào, những sản phẩm nào ảnh hưởng quá mức tới môi trường thì chúng ta tập trung vào sản phẩm đó.

Tất nhiên chúng ta cần có nghiên cứu tác động mức độ nào là hợp lý để làm sao không chỉ bảo vệ môi trường mà còn phát triển kinh tế, nuôi dưỡng để doanh nghiệp phát triển nhiều hơn vì doanh nghiệp chính là hạt nhân của nền kinh tế.

 Sử dụng túi nilon tràn lan có nghĩa là việc đánh thuế vào túi nilon chưa cao

Sử dụng túi nilon tràn lan có nghĩa là việc đánh thuế vào túi nilon chưa cao

Chúng ta áp dụng đúng và có thể có chính sách khuyến khích chứ không chỉ là xử phạt. Khi chúng ta có cách nhìn, có điều chỉnh chính sách hợp lý hơn sẽ mang lại kết quả tốt hơn.

Chẳng hạn ở một số nước trên thế giới cho thấy, vấn đề thuế môi trường, khuyến khích các hành vi bảo vệ môi trường cũng như giảm thiểu gây tác hại môi trường… đều được các nước áp dụng.

Vậy theo ông, chúng ta cần có những giải pháp gì để khuyến khích sản xuất tiêu dùng xanh?

- Tôi cho rằng sử dụng công cụ chính sách thuế nhằm điều tiết nền kinh tế hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững ở Việt Nam là điều rất cần thiết hiện nay.

Nhằm khuyến khích sản xuất tiêu dùng xanh, dự án “Nghiên cứu sử dụng công cụ chính sách thuế nhằm điều tiết nền kinh tế hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững ở Việt Nam” đã đưa ra những khuyến nghị thông qua chính sách thuế sử dụng đất nông nghiệp như miễn thuế cho đất đồi, núi trọc dùng vào sản xuất nông, lâm nghiệp, đất trồng rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.

Khuyến khích sản xuất tiêu dùng xanh thông qua chính sách thuế giá trị gia tăng và hạn chế gây ô nhiễm môi trường thông qua chính sách thuế tài nguyên.

Về chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, dự án cho rằng cần được hoàn thiện cả về mức ưu đãi và thời gian ưu đãi nhằm thu hút có chọn lọc đầu tư vào phát triển ngành, lĩnh vực công nghệ cao, sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường, có giá trị gia tăng cao; khuyến khích sản xuất năng lượng sạch; khuyến khích phát triển vận tải công cộng.

Đồng thời, dự án cũng khuyến nghị chính sách thuế bảo vệ môi trường thông qua việc tăng mức thu, đồng thời áp dụng kết hợp mức thu tuyệt đối và mức thuế suất theo tỷ lệ phần trăm; mở rộng phạm vi đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường để bao quát hết các sản phẩm gây tổn hại đối với môi trường.

Việt Nam có thể áp dụng được những kinh nghiệm gì từ các nước trên thế giới về việc thúc đẩy tăng trưởng xanh, thưa ông?

- Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững ở các quốc gia nhìn chung đều hướng tới giảm phát thải khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển công nghệ xanh và các ngành công nghiệp sử dụng ít tài nguyên…

Thái Lan, Malaysia, Nam Phi, Trung Quốc… cũng đã miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải.

Nhật Bản, Ba Lan, Hàn Quốc… thì ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp có hoạt động khoa học và công nghệ.

Ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã được áp dụng rộng rãi tại Indonesia, Hàn Quốc.

Tôi cho rằng kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á như Indonesia và Malaysia có thể áp dụng cho Việt Nam. Hai nước này đã có chính sách mạnh mẽ hơn cho các sản phẩm gây nguy hại cho môi trường. Và đặc biệt, họ kiểm soát được rõ ràng hơn mức độ gây ô nhiễm và khối lượng gây ô nhiễm của các doanh nghiệp…

Nguồn TGTT: https://thegioitiepthi.vn/muc-thue-danh-vao-hanh-vi-tieu-cuc-voi-moi-truong-chua-du-suc-ran-de-159607.html