Một số lưu ý đối với Kiểm sát viên khi kiểm sát việc đối chất

Đối chất là hoạt động do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo trình tự, thủ tục Bộ luật Tố tụng hình sự quy định khi xét thấy có mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn. Từ thực tiễn công tác kiểm sát, chúng tôi rút ra một số vấn đề Kiểm sát viên cần lưu ý để có thể kiểm sát chặt chẽ việc đối chất của Cơ quan điều tra.

Trực tiếp kiểm sát đối chất trong giai đoạn nào?

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, trước khi tiến hành biện pháp điều tra đối chất, Điều tra viên phải thông báo cho VKS cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc đối chất. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc đối chất. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản đối chất (Điều 189 BLTTHS 2015).

Đại diện VKSND tỉnh Bình Thuận kiểm sát việc thi hành lệnh bắt tạm giam một giám đốc công ty bất động sản. Ảnh: vksbinhthuan

Đại diện VKSND tỉnh Bình Thuận kiểm sát việc thi hành lệnh bắt tạm giam một giám đốc công ty bất động sản. Ảnh: vksbinhthuan

Trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, theo cuốn “Giải đáp vướng mắc về pháp luật và giải quyết các vụ án về tội phạm ma túy năm 2019-2020” của VKSND tối cao, Cơ quan điều tra (CQĐT) cũng có quyền tiến hành hoạt động đối chất. Tuy nhiên, đây là biện pháp để tiến hành kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, không phải là biện pháp điều tra được quy định tại BLTTHS 2015 nên việc tham gia của Kiểm sát viên để kiểm sát hoạt động này thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 160 BLTTHS 2015, theo đó, Kiểm sát viên có thể tham gia hoặc không tham gia trực tiếp vào hoạt động này.

Những lưu ý khi trực tiếp kiểm sát việc đối chất

Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng (ví dụ như mâu thuẫn trong lời khai của các bị can, giữa bị can với bị hại, giữa bị hại với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau về công cụ gây án, số lượng đối tượng tham gia, cách thức gây án, vị trí gây thương tích, dấu vết thương tích trên thân thể bị hại) mà CQĐT chưa tiến hành đối chất để giải quyết các mâu thuẫn đó, thì Kiểm sát viên phải kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo VKS ra văn bản yêu cầu CQĐT tiến hành đối chất.

Trước khi tham gia kiểm sát việc đối chất, Kiểm sát viên nên trao đổi, đề nghị Điều tra viên cung cấp các thông tin, tài liệu về kế hoạch đối chất, tiến hành nghiên cứu hồ sơ, tổng hợp lại đầy đủ các mâu thuẫn đang tồn tại, tìm nguyên nhân của mâu thuẫn và hướng giải quyết các mâu thuẫn đó. Trường hợp xét thấy cần thiết thì đề nghị Điều tra viên lấy lời khai những người liên quan để xác định chính xác, đầy đủ các mâu thuẫn cần phải giải quyết trước khi tiến hành đối chất. Đối với vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi, Kiểm sát viên cần đặc biệt lưu ý, tránh vi phạm quy định tại khoản 6 Điều 421 BLTTHS 2015. Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ, ngoài đối chất ra, có biện pháp nào khác giải quyết được mâu thuẫn không? Nếu có thể giải quyết mâu thuẫn bằng biện pháp điều tra khác thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên không thực hiện việc đối chất. Chỉ khi có đủ căn cứ xác định, nếu không đối chất giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với bị can thì không thể giải quyết được vụ án, lúc đó, Kiểm sát viên mới yêu cầu Điều tra viên thực hiện việc đối chất.

Kiểm sát viên VKSND huyện Hàm Thuận Nam (tỉnh Bình Thuận) phối hợp với Điều tra viên hỏi cung bị can. Ảnh: vksbinhthuan

Kiểm sát viên cũng nên cùng Điều tra viên trao đổi, thống nhất về các mâu thuẫn phải giải quyết, các tài liệu, chứng cứ cần sử dụng, những người tham gia đối chất, ai đối chất trước, ai đối chất sau, các câu hỏi cụ thể đưa ra, dự kiến các câu trả lời của người tham gia đối chất và cách hỏi tiếp đối với từng câu trả lời; dự kiến các biện pháp giải quyết đối với từng tình huống thường gặp như người tham gia đối chất từ chối khai báo, thay đổi lời khai, chống đối, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, đe dọa người khác… để có sự chủ động trong quá trình đối chất.

Khi trực tiếp kiểm sát việc đối chất, Kiểm sát viên phải có mặt từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc nhằm bảo đảm hoạt động này thực hiện khách quan, đúng trình tự, thủ tục luật định; quan tâm kiểm sát việc kiểm tra tình trạng sức khỏe của người tham gia đối chất và giải quyết các đề nghị của họ; kiểm sát các câu hỏi mà Điều tra viên đưa ra cho người tham gia đối chất trả lời, bảo đảm các câu hỏi phải cụ thể, rõ ràng, không mang tính gợi ý; lựa chọn chỗ ngồi phù hợp để có thể quan sát được thái độ, cử chỉ, hành động của người tham gia đối chất, việc này sẽ cung cấp cho Kiểm sát viên các thông tin quan trọng như người tham gia đối chất khai báo thành khẩn hay gian dối, giữa những người tham gia đối chất có sự tác động, thống nhất lời khai hay không.

Thực tiễn đối chất thường hay xảy ra các tình huống người tham gia đối chất chống đối, không hợp tác, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, sức khỏe của nhau, thay đổi lời khai hoặc từ chối khai báo. Tùy tình huống cụ thể, Kiểm sát viên phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên để tìm nguyên nhân, yêu cầu người tham gia đối chất giải thích rõ lý do của sự thay đổi, sau đó xem xét, đánh giá với các chứng cứ, tài liệu khác để định hướng giải quyết đúng đắn nhất.

Quá trình kiểm sát việc đối chất, nếu phát hiện có vấn đề chưa chính xác, chưa đầy đủ hoặc có vi phạm, như người tham gia đối chất chưa khai xong nhưng Điều tra viên đã nhắc lại những lời khai trước của họ, Điều tra viên chưa hỏi về mối quan hệ giữa những người tham gia đối chất hoặc chưa giải thích cho người làm chứng, bị hại biết trách nhiệm về việc từ chối khai báo, trốn tránh khai báo, cố tình khai báo gian dối theo quy định tại Điều 189 BLTTHS 2015, Kiểm sát viên có thể đề ra yêu cầu đối với Điều tra viên (nêu rõ yêu cầu thực hiện) và người tham gia đối chất.

Kiểm tra, đối chiếu kỹ giữa biên bản đối chất với thực tế, diễn biến quá trình đối chất, bảo đảm sự thống nhất, phù hợp. Nếu có điều gì chưa đúng, chưa đầy đủ, Kiểm sát viên yêu cầu sửa đổi, bổ sung trước khi ký tên vào biên bản đối chất. Trường hợp Điều tra viên không đồng ý với yêu cầu của Kiểm sát viên thì cũng phải ghi rõ vào biên bản. Sau khi kết thúc việc đối chất, Kiểm sát viên báo cáo bằng văn bản cho lãnh đạo VKS về kết quả công tác kiểm sát việc đối chất, trong đó nêu rõ việc đối chất đã giải quyết và chưa giải quyết được những mâu thuẫn gì, các vi phạm đã xảy ra và biện pháp tác động của Kiểm sát viên, các yêu cầu của Kiểm sát viên không được Điều tra viên đồng ý thực hiện và đề xuất hướng xử lý, giải quyết, như kiến nghị khắc phục vi phạm, yêu cầu tiến hành các biện pháp điều tra khác hoặc thực hiện lại hoạt động đối chất theo đúng quy định của pháp luật.

Kiểm sát biên bản đối chất thế nào?

Trường hợp không trực tiếp kiểm sát việc đối chất, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên chuyển kịp thời biên bản đối chất để kiểm sát. Nếu đã hết thời hạn quy định tại khoản 5 Điều 88 BLTTHS 2015 mà Điều tra viên chưa chuyển biên bản cho VKS thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên thực hiện. Ngay sau khi nhận được biên bản do Điều tra viên chuyển đến, Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát chặt chẽ các nội dung: thời gian, địa điểm đối chất, thành phần tiến hành, tham gia việc đối chất, thực tế, có một số trường hợp phân công người chưa được phân công tiến hành tố tụng trong vụ án, chưa được bổ nhiệm chức danh tư pháp tiến hành đối chất, dẫn đến việc đối chất không có giá trị pháp lý và phải thực hiện lại; kiểm sát biên bản đối chất, bảo đảm được lập đúng quy định tại Điều 178, 133 BLTTHS 2015; Điều tra viên có giải thích trách nhiệm từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối khi có bị hại, người làm chứng tham gia đối chất chưa? Việc đối chất đã giải quyết được và chưa được những vấn đề gì? Việc đặt câu hỏi của Điều tra viên có gì vi phạm, thiếu sót hay không?

Trường hợp xét thấy việc đối chất của Điều tra viên chưa đầy đủ, có vi phạm, Kiểm sát viên trao đổi để Điều tra viên khắc phục vi phạm, tiếp tục tiến hành đối chất hoặc báo cáo lãnh đạo VKS để tự mình tiến hành việc đối chất hoặc kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm. Tiến hành so sánh, đối chiếu sự phù hợp giữa biên bản đối chất với các chứng cứ, tài liệu khác của vụ án.

Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được biên bản đối chất do Điều tra viên chuyển đến, Kiểm sát viên đóng dấu bút lục, sao lưu biên bản lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng biên bản cho Điều tra viên.

Anh Minh

Nguồn BVPL: https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-phap/thuc-tien-kinh-nghiem/mot-so-luu-y-doi-voi-kiem-sat-vien-khi-kiem-sat-viec-doi-chat-106912.html