Một kênh thuận lợi để củng cố lòng tin của doanh nghiệp nước ngoài với Việt Nam

Để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang tích cực nỗ lực thúc đẩy công cuộc cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật trong nước và thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Trong đó, hoàn thiện pháp luật quốc gia về tư pháp quốc tế trên các lĩnh vực giải quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài; công nhận và cho thi hành (CNVCTH) tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài, bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài là những nhiệm vụ trọng tâm mà Việt Nam đang tăng cường thực hiện để hài hòa hóa hệ thống pháp luật quốc gia với thông lệ quốc tế và thúc đẩy quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại quốc tế phát triển. Tuy nhiên, số lượng yêu cầu CNVCTH phán quyết trọng tài nước ngoài ở Việt Nam không nhiều đang đặt ra một số vấn đề cần giải quyết đối với các cơ quan chức năng.

Việc ít nhưng khó

Năm 2012, Công ty LSA (bên được thi hành có trụ sở tại Thụy Sỹ) có đơn gửi Bộ Tư pháp và TAND TP HN yêu cầu CNVCTH tại Việt Nam phán quyết của Hội đồng Trọng tài thuộc Hiệp hội Bông Quốc tế tại Liverpool (Vương quốc Anh) với nội dung: Buộc bị đơn (Công ty Cổ phần HP có trụ sở tại Hà Nội, Việt Nam) phải trả nguyên đơn số tiền hơn 748 nghìn USD và lãi phát sinh từ ngày 25/10/2011 đến ngày thanh toán xong theo lãi suất 3,5%/năm và phí trọng tài là 5.300 bảng Anh.

Trong quá trình xét đơn yêu cầu, Tòa án đã phải tiến hành xác minh trụ sở hiện tại của Công ty HP vì Công ty đã di chuyển địa điểm nhiều lần, không còn biểu hiện tại nơi có trụ sở, hoạt động của Công ty hầu như đã ngừng trệ; phải mất rất nhiều thời gian mới xác định được đại diện theo pháp luật của Công ty CP HP đã thay đổi và thu thập được đăng ký kinh doanh mới của Công ty. Sau khi xem xét những tài liệu về hồ sơ và kết quả tại phiên họp, Hội đồng xét đơn đã chấp nhận đơn yêu cầu của Công ty LSA.

 Một hội thảo về CNVCTH phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam

Một hội thảo về CNVCTH phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam

Ở 1 vụ khác, bên được thi hành (Doanh nghiệp Nhà nước Liên bang Nga SP có trụ sở tại Moscow, Liên bang Nga) nộp đơn yêu cầu CNVCTH tại Việt Nam phán quyết của trọng tài Hà Lan. Nội dung là hủy bỏ việc chuyển nhượng sử dụng nhãn hiệu rượu Vodka Nga giữa bên được thi hành và bên phải thi hành (Công ty Pham); đề nghị Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam công nhận nhãn hiệu hàng hóa rượu Vodka thuộc sở hữu của bên được thi hành.

Trong quá trình giải quyết đơn yêu cầu CNVCTH tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài của SP, Tòa án thấy bên phải thi hành không có trụ sở hay bất kỳ chi nhánh nào tại Việt Nam. Việc ủy quyền của bên được thi hành cho Công ty Pham không đúng quy định của pháp luật nên Công ty Pham không có quyền ký đơn yêu cầu. Mặt khác, ngày 22/02/2013, Cục Sở hữu trí tuệ đã có các quyết định với nội dung chấp nhận hủy bỏ ghi nhận chuyển nhượng và ghi nhận chủ các nhãn hiệu có tranh chấp là Doanh nghiệp Nhà nước Liên bang Nga. Căn cứ những cơ sở trên, Tòa án đã đình chỉ việc xét đơn yêu cầu của bên được thi hành.

Trên đây chỉ là 2 ví dụ về phán quyết trọng tài nước ngoài được/không được CNVCTH tại Việt Nam. Theo số liệu của TANDTC, từ ngày 01/10/2017 đến ngày 31/8/2018, các Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp cao đã gửi ra nước ngoài 2.069 hồ sơ ủy thác tư pháp để giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động, trong đó, số vụ án kinh doanh, thương mại và lao động chỉ chiếm 2%.

Cần tăng hiệu quả để thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế

Sở dĩ loại việc CNVCTH phán quyết trọng tài nước ngoài ở Tòa án không nhiều là do các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài thường tuân thủ và tự nguyện thi hành phán quyết, các trường hợp phải yêu cầu CNVCTH tại Tòa án rất hạn hữu. Tuy nhiên, đây là loại việc khó so với các loại việc được giải quyết tại Tòa án do liên quan đến các quy định của pháp luật trong nước và quốc tế.

Các đại biểu tham dự hội thảo

Không những thế, thẩm phán khi được phân công giải quyết loại việc này phải đầu tư khá nhiều thời gian để tìm hiểu, sưu tầm và nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan. Việc CNVCTH không chỉ đơn thuần trên cơ sở, góc độ, đánh giá, nhìn nhận của thẩm phán mà còn xem xét, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tập quán thương mại, xu hướng quốc tế trong giải quyết tranh chấp thương mại. Đặc biệt, thẩm phán còn phải hiểu và nắm rõ phương thức diễn giải công ước phù hợp, chính xác, các bảo lưu quốc gia cũng như các quy định điều ước mà Việt Nam ký kết, tham gia hoặc là thành viên.

Hơn nữa, phán quyết trọng tài nước ngoài phải có yêu cầu và điều kiện thi hành ở Việt Nam mới được CNVCTH. Bởi theo quy định của Công ước New York năm 1958 của Liên hợp quốc về CNVCTH phán quyết của trọng tài nước ngoài và pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) thì các phán quyết trọng tài không có yêu cầu thi hành đương nhiên có hiệu lực ở các quốc gia thành viên. Còn Điều 424 Bộ luậtTTDS 2015 quy định: “Phán quyết trọng tài nước ngoài được CNVCTH tại Việt Nam phải là phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, chấm dứt thủ tục tố tụng trọng tài và có hiệu lực thi hành”.

Từ thực tiễn giải quyết loại việc CNVCTH tại Tòa án Hà Nội, Thẩm phán TAND TP Hà Nội Nguyễn Đình Tiến phản ánh, việc tìm hiểu và vận dụng pháp luật vẫn còn gặp phải một số vấn đề khó khăn. Đặc biệt là việc xác định phán quyết trọng tài nước ngoài có phải là phán quyết cuối cùng hay không, bởi lẽ có những phán quyết mà thẩm phán cần thẩm tra xác minh mới khẳng định được có phải là phán quyết cuối cùng hay không.

Thẩm phán Nguyễn Đình Tiến

Về xác định nơi người phải thi hành có trụ sở hoặc cư trú thì thực tiễn cho thấy có nhiều pháp nhân thay đổi địa điểm liên tục, không cố định, thậm chí có trường hợp bỏ trốn. Một số trường hợp, người yêu cầu chỉ xuất trình được địa chỉ theo như phán quyết trọng tài và đề nghị Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật TTDS để điều tra xác minh địa chỉ của người phải thi hành… Đây là vấn đề cần có sự hướng dẫn cụ thể để việc CNVCTH được áp dụng thống nhất.

Dẫn số liệu thống kê của TANDTC về tình hình thụ lý giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài trong 5 năm 2014 - 2018 dao động ở mức thấp từ 80 - 151 vụ, bà Catherine Phuong, Trợ lý Trưởng Đại diện Thường trú UNDP tại Việt Nam còn cho biết: Số yêu cầu công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài được giải quyết cũng thấp so với tổng số yêu cầu được tiếp nhận (trong 5 năm chỉ giải quyết 28/45 yêu cầu).

Trong bối cảnh Việt Nam đã có nhiều bước tiến trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, điển hình là theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu mới nhất vào năm 2019 do Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố, Việt Nam đã tăng 10 bậc để xếp hạng thứ 67 về năng lực cạnh tranh thì bà Phuong đề nghị Tòa án Việt Nam cần phải nâng cao năng lực cho các thẩm phán trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế, CNVCTH các phán quyết của trọng tài nước ngoài.

“Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi và củng cố lòng tin của cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài đối với thị trường Việt Nam” – bà Phuong nhấn mạnh.

Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Thúy Hiền

Theo Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Thúy Hiền, hiện nay, Việt Nam là thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương quan trọng như Công ước 1958, Công ước năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước của Hội nghị La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại và 17 điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp về dân sự.

"Đây là những điều ước quốc tế liên quan trực tiếp đến công tác giải quyết, xét xử của Tòa án Việt Nam. Nhiều quy định của các điều ước quốc tế nêu trên đã được nội luật hóa vào Bộ luật TTDS năm 2015 để thuận tiện cho việc áp dụng trên thực tế" - Phó Chánh án TANDTC nhận định.

Tuy nhiên, thực tiễn trong những năm gần đây cho thấy số lượng các tranh chấp thương mại quốc tế, yêu cầu CNVCTH phán quyết trọng tài nước ngoài mặc dù không nhiều, nhưng các loại vụ việc này lại rất đa dạng về quan hệ tranh chấp, phức tạp về tính chất và ngày càng tăng về số lượng qua các năm. Trong khi đó, còn có nhiều thẩm phán của Việt Nam chưa tích lũy được nhiều kiến thức, kinh nghiệm, đặc biệt là kiến thức áp dụng pháp luật quốc tế khi giải quyết các loại vụ việc này; còn thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của Bộ luật TTDS về vấn đề này.

Phó Chánh án TAND TP Hải Phòng Dương Văn Chính

Để từng bước khắc phục những hạn chế, bất cập và hoàn thành tốt công tác tương trợ tư pháp, Phó Chánh án TAND TP Hải Phòng Dương Văn Chính kiến nghị TANDTC tập trung chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện đồng bộ, có hiệu quả, chất lượng các giải pháp. Chẳng hạn như phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành liên quan trong việc trao đổi với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài về những vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện các yêu cầu ủy thác tư pháp với Việt Nam để có hướng xử lý thích hợp nhằm hạn chế thời gian kéo dài giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài.

Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác tương trợ tư pháp tại TANDTC, Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp cao; tăng cường cơ sở vật chất và kinh phí cho công tác tương trợ tư pháp cũng vô cùng cần thiết…

H.Thư - P.Mai

Nguồn Pháp Luật VN: http://baophapluat.vn/tu-phap/mot-kenh-thuan-loi-de-cung-co-long-tin-cua-doanh-nghiep-nuoc-ngoai-voi-viet-nam-476495.html